Xu Hướng 10/2023 # 6 “Liều Thuốc” Đặc Trị Chứng Hỗn Hào Ở Trẻ # Top 17 Xem Nhiều | Iild.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # 6 “Liều Thuốc” Đặc Trị Chứng Hỗn Hào Ở Trẻ # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết 6 “Liều Thuốc” Đặc Trị Chứng Hỗn Hào Ở Trẻ được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Iild.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

2. Nói cho con biết cảm giác của mình

Nếu ba mẹ tỏ ra giận dữ, quát mắng con thì sẽ như đổ thêm dầu vào lửa, chưa kể cũng không giáo dục con được điều gì. Do vậy, ba mẹ hãy giữ bình tĩnh và nói cho con biết cảm giác của mình. Ba mẹ có thể gọi trẻ đến trước mặt, yêu cầu con nhìn vào mắt mình, giải thích cho con hiểu những lời nói vừa rồi của con sẽ gây tổn thương cho người khác và cho chính ba mẹ, ba mẹ cảm thấy rất buồn và con không được nói như thế nữa.

3. Dạy con cách diễn đạt phù hợp

Trẻ có quyền không đồng ý với người lớn, tuy nhiên, điều đó không có nghĩa trẻ được phép ăn nói xấc xược với người lớn hơn mình. Rất có thể trẻ chưa biết cách diễn đạt ý mình một cách hợp lý, khéo léo nên mới vậy. Do đó, ba mẹ cần giúp con học cách trình bày ý kiến của mình bằng thái độ bình tĩnh, chừng mực. Chẳng hạn, thay vì nói hỗn với người lớn, trẻ có thể nói: “Con không muốn điều đó, cô/chú/ông/bà đừng như vậy với con nữa”…

4. Phạt khi cần

Ba mẹ có thể dùng đến biện pháp mạnh hơn khi con hỗn hào với người lớn, đặc biệt khi trẻ thường xuyên lặp lại việc đáng xấu hổ này. Ba mẹ nên nói với con một cách cương quyết và rõ ràng là ba mẹ không chấp nhận thái độ hỗn hào đó của con và có thể phạt con bằng cách cho con chọn lựa, chẳng hạn: “Ba mẹ sẽ phạt đánh roi con hoặc sẽ bắt con quỳ 30 phút, con chọn cái nào?”. Tuy vậy, ba mẹ cũng không nê quá khắt khe, nếu không trẻ sẽ “thù dai”. Lời lẽ đe dọa chỉ làm cho trẻ thêm bướng bỉnh, lì lợm.

5. Không chủ quan các nguồn xấu

Trẻ hỗn hào có thể bắt chước từ xung quanh, bạn bè cùng trang lứa, các chương trình tivi, người lớn… Do vậy, khi thấy đâu đó có cảnh phản ứng xấu của người này đối với người kia, ba mẹ cần nói cho trẻ biết đó là tính xấu và con không được học theo. Thậm chí cũng nên hạn chế con tiếp xúc với những “nguồn xấu” này.

Ba mẹ nên rèn cho con tính ngoan ngoãn, lễ phép khi còn nhỏ.

6. Dạy con lễ phép

Không bao giờ là quá sớm để ba mẹ rèn tính lễ phép, chừng mực của con đối với người khác. Dạy con những từ ngữ quan trọng như: “Xin lỗi”, “Cảm ơn” và giúp con biết ứng dụng vào các tình huống thực tế khi giao tiếp. Khi con lớn hơn chút nữa, ba mẹ có thể dạy con sự lễ phép khi người lớn nói chuyện với mình, khi con nghe điện thoại… Trẻ không thể tự dưng biết cư xử phải phép, mà điều đó cần phải được rèn dũa qua thời gian từ khi con còn bé.

chúng tôi

Phân Tích Khổ 6 Việt Bắc ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu Đoạn 6 Hay

Phân Tích Khổ 6 Việt Bắc ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu Đoạn 6 Hay ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Nhất Được Chọn Lọc Tại SCR.VN.

Lập dàn ý phân tích khổ 6 Việt Bắc là một bước quan trọng giúp các em học sinh phân tích đề và định hướng làm bài. Phân tích khổ 6 Việt Bắc dàn ý sẽ là nội dung tham khảo hữu ích trong quá trình làm bài. Tham khảo mẫu phân tích đoạn 6 Việt Bắc dàn ý chi tiết như sau:

1.Mở bài phân tích khổ 6 Việt Bắc:

Giới thiệu về nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc.

Giới thiệu về nội dung cần phân tích –

2.Thân bài phân tích khổ 6 Việt Bắc:

-2 câu đầu:

Chia, sẻ, đắp cùng : những động từ bộc lộ tình cảm đồng cam cộng khổ của Việt Bắc và cách mạng.

Gợi lên tình cảnh khốn khó với sự san sẻ nghĩa tình của người dân Việt Bắc và người chiến sĩ.

-2 câu tiếp :

Trong nỗi nhớ của người cán bộ, hình ảnh người dân Việt Bắc hiện lên chân thật và đầy xúc động với hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng / địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.

Đó là người lao động nghèo khổ, neo đơn nhưng dạt dào ân tình với cách mạng, không ngại vất vả, cực khổ lao động góp phần tạo nên lương thực cho cách mạng nuôi quân.

Hình ảnh thơ giàu sức gợi, phản ánh tình cảm sắc son của đồng bào dân tộc đối với cách mạng.

Nắng cháy lưng : hình ảnh hiện thực có sức gợi thời tiết khắc nghiệt, qua đó nói lên sự vất vả, gian khổ.

Địu con lên rẫy : lời thơ giản dị, cũng là hình ảnh hiện thực, gợi lên hoàn cảnh neo đơn của người mẹ dân tộc.

Từ đó tình cảm sắc son cao đẹp của người dân tộc đối với cách mạng càng hiện lên rõ nét.

-4 câu tiếp theo:

Con người và cảnh vật gắn bó với nhau. Nhớ về con người Việt Bắc, người cán bộ cách mạng lại nhớ trở lại những kỷ niệm gắn bó ở Việt Bắc.

Đó là kỷ niệm với những lớp học bình dân học vụ (lớp học i tờ), những đêm liên hoan văn nghệ giữa núi rừng.

Đồng khuya đuốc sáng : lời thơ gợi lên hình ảnh những đêm liên hoan văn nghệ, vui vẻ tưng bừng nơi rừng núi.

Những ngày tháng công tác ở cơ quan, gian nan nhưng lạc quan, đầy ắp yêu thương với tiếng hát , tiếng ca vang dội cả núi rừng.

Ca vang núi đèo : lời thơ mang tính chất ẩn dụ, phản ánh tinh thần lạc quan, tình cảm đoàn kết gắn bó giữa cách mạng và người dân Việt Bắc.

-2 câu cuối :

Cảnh vật Việt Bắc với nét gợi cảm trong buổi chiều và đêm tối, hiện lên sống động, tha thiết trong nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi.

Từ nghi vấn “sao” kết hợp với “nhớ” làm cho giọng thơ trở nên tha thiết, phù hợp với tâm trạng của người cán bộ cách mạng về xuôi.

Rừng chiều, suối xa : hình ảnh thơ gợi lên khung cảnh trữ tình, gợi cảm của núi rừng Việt Bắc.

Cảnh vật được mô tả với chi tiết về âm thanh (tiếng mỏ, chày đêm nện cối) thể hiện khung cảnh đặc trưng của núi rừng. Am thanh vang vọng gợi tới những ký ức xa xôi nhưng tha thiết và đầy ám ảnh trong tâm tư của những kẻ chia li.

3.Kết bài phân tích khổ 6 Việt Bắc:

Nêu cảm nhận của bản thân về đoạn thơ.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Sơ Đồ Tư Duy Việt Bắc, Bức Tranh Tứ Bình 🍀 18 Mẫu Ngắn Hay

Văn học kháng chiến đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu được đánh giá là tác phẩm đồ sộ, nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân dân ta trong kháng chiến trường kỳ. Đọc bài thơ Việt Bắc, ta sẽ thấy được tình cảm sắt son, đoàn kết một lòng của nhân dân qua ngòi bút tài hoa, trữ tình của tác giả.

Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Trong đầu những năm 40 của thế kỉ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân ta cùng với các chiến sĩ cùng sống, đùm bọc và chiến đấu. Đến năm 1954, sau chiến thắng vang dội, Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện trọng đại ấy của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

Thông qua lời thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến, là tiếng lòng của quân dân ta trong máu lửa, gian lao. Trong đó, khổ thơ thứ 6 đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và trường ca cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc lập tự do của đất nước.

Qua khổ thứ 6 trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã thể hiện tấm chân tình của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tác phẩm cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải biết ghi nhớ những công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào hùng làm nên độc lập tự do cho đất nước.

Gợi ý cho bạn ☔ Bài Thơ Việt Bắc ☔ Nội Dung, Cảm Nhận, Dàn Ý, Nghị Luận

Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng, thơ của ông luôn song hành cùng với những cột mốc cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, bài thơ Việt Bắc được in trong tập thơ cùng tên được xem là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cùng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Việt Bắc là mở đầu phần I của bài thơ Việt Bắc vốn dĩ viết về hoàn cảnh chia tay của quân và dân ta đầy lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở – người đi, những con người đã từng gắn bó lâu dài (15 năm từ 1945 – 1954) với biết bao nghĩa tình sâu nặng sau chiến thắng 1954. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ 6 bài Việt Bắc.

Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.

Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.

Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến.

Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng.

Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ. Việt bắc chính là cội nguồn, là chân lý nơi nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh. Và Việt Bắc cũng là nơi khai sinh ra những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc.

Đọc nhiều hơn 🌻 Cảm Nhận Bài Thơ Việt Bắc 🌻 15 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay

Bàn về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét “tình thương mến đặc biệt trong thơ Tố Hữu và sự cảm hòa với người với cảnh… một thứ nhạc xuân tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ”. Trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bằng làn khói sương hình ảnh con người tháng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên.

Nối tiếp khúc ca nỗi nhớ cảnh thiên nhiên Việt Bắc, đoạn thơ thứ năm là những tiếng nhớ tiếng thương hướng tới những đồng bào đã từng gắn bó sắt son. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thân thương mộc mạc cần thế kỷ niệm một thời không thể nào quên.

Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng năm khó khăn thiếu thốn cho trở nên thật ấm áp bởi sự đầy đủ của tình người tự sự sẻ chia bình dị, không phải là những điều lớn lao vĩ đại như tính mệnh, xương máu, mà chỉ là bát cơm, củ sắn, mảng chăn sơ sài nhưng đó lại là ân tình sâu nặng của con người nơi đây.

Câu thơ vừa là một nét tả thực những khó khăn là người lính Việt Bắc gặp phải trên con đường chiến đấu, lại vừa làm nổi bật lên tình quân dân khăng khít. Vật chất thật ít ỏi, đơn sơ mà nghĩa tình thật sâu sắc, thiêng liêng.

Tình đồng bào, đồng chí mà ấm áp thân thương như tình cảm gia đình ruột thịt. Giữa cán bộ và đồng bào dường như không còn khoảng cách nào nữa. Các chi tiết nghệ thuật ở đây vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có tính khái quát. Tất cả khẳng định sự đồng cam, cộng khổ giữa nhân dân Việt Bắc với những người chiến sĩ cách mạng.

Trong nỗi nhớ tha thiết ý khi hướng về con người Việt Bắc, tiếng lòng của nhà thơ đến chạm tấm hình ảnh thân thuộc mà thiêng liêng – hình ảnh người mẹ tảo tần lam lũ với đức hi sinh cao cả:

Hình ảnh người mẹ chịu thương chịu khó, địu con lên rẫy, cõng trên lưng cả mặt trời nắng cháy, bẻ từng bắp ngô nhọc nhằn, vất vả nuôi giấu cán bộ và dành cho cán bộ những gì đẹp nhất trong cuộc sống của mình. Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với người mẹ Việt Bắc.

Hình ảnh người mẹ ấy bình dị gần gũi, mộc mạc trở đi trở lại trong các sáng tác của Tố Hữu với tiếng gọi “bầm” quen thuộc. Mẹ là nhân vật lịch sử góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của dân tộc nên không chỉ Tố Hữu là thơ ca Việt Nam đã nhiều lần thưởng thức cái bóng hình ấy:

Sau hình ảnh người mẹ trong dòng chảy ký ức của thi nhân dần vọng về những âm thanh quen thuộc của nhịp sống Việt Bắc:

Bức tranh cuộc sống Việt Bắc rộn rã âm thanh. Cán bộ cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng kháng chiến mà còn gieo chữ xuống bả, đem ánh sáng văn hóa xuống làng. Các lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ được mở ra khắp các bản làng. Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục chân trời tri thức mà còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể.

Tinh thần trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” thực sự thấm sâu vào nhận thức của mỗi người.

Tiếng mõ rừng chiều giục đàn trâu trở về trong niềm vui háo hức của đám trẻ mục đồng sau một ngày lao động hăng say. Âm thanh gợi một không gian êm ả, thanh bình. Tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơ rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Tất cả tạo nên một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc, là âm thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, một bài ca trong trẻo, tươi vui, mà không một cuộc sống khổ ải nào có thể dập tắt được.

Khúc hát về nỗi nhớ con người Việt Bắc nói riêng và cả bài thơ nói chung đã ru vỗ hồn người bằng giai điệu ngọt ngào tha thiết. Đoạn thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Việt Bắc trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được biết đến với tiếng thơ mang đậm tính trữ tình – chính trị. Những vấn đề mang tính lịch sử khi đi vào thơ ông đều mang âm hưởng của sự ngọt ngào, tha thiết. Điều này đã được thể hiện rõ qua tác phẩm “Việt Bắc” – một bài ca về tình quân dân gắn bó thủy chung, son sắt.

Bài thơ đã tái hiện thành công tình cảm gắn bó sâu nặng và nghĩa tình đầy thủy chung của người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Trước hết, tình cảm đó được thể hiện rõ thông qua kết cấu của tác phẩm. Bài thơ là lời đối đáp của nhân dân Việt Bắc và người cán bộ cách mạng trong hoàn cảnh những người kháng chiến từ chiến khu Việt Bắc trở về xuôi.

Cuộc chia tay lịch sử đó đã được tái hiện thông qua những cung bậc tình cảm đầy da diết về biết bao kỉ niệm đẹp cùng hoài niệm tha thiết về năm tháng đã qua trong khổ thơ thứ 6:

Tác giả Tố Hữu đã khéo léo tạo nên những vần thơ chan chứa yêu thương và sâu nặng nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình cách mạng. Nhớ về Việt Bắc là nhớ về tấm lòng đồng cam cộng khổ cùng những sẻ chia, thấu hiểu thời kháng chiến gian nan: “Thương nhau, chia củ sắn lùi/ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nghĩa tình gắn bó đó chính là một trong những biểu hiện làm ngời sáng vẻ đẹp của tinh thần yêu nước – mạch ngầm xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Vẻ đẹp nghĩa tình cùng sự gắn bó trong tình cảm của “người đi” – “kẻ ở” đã được tái hiện thành công thông qua các biện pháp nghệ thuật giàu tính dân tộc mang đặc trưng của thơ Tố Hữu – một tiếng thơ có sự hòa quyện giữa tính trữ tình và chính trị. Tác giả đã khéo léo vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống kết hợp lối kết cấu giao duyên quen thuộc trong ca dao, dân ca.

Bên cạnh đó, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ cùng lối nói giàu hình ảnh đã được sử dụng nhuần nhuyễn để tạo nên một giọng thơ tâm tình, ngọt ngào của bài ca về tình cảm son sắt thủy chung mang đậm nghĩa tình cách mạng.

Như vậy, qua đoạn thơ, chúng ta có thể thấy được tình cảm gắn bó đầy nghĩa tình thủy chung giữa quân và dân ta trong những năm tháng kháng chiến gian khổ cũng như tài năng của nhà thơ Tố Hữu trong việc diễn đạt một câu chuyện mang tính chính trị trở nên da diết, trữ tình và thiết tha.

Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Bài Việt Bắc 🌟 Những Bài Văn Cảm Nhận Hay

Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn kết, đồng lòng chiến đấu. Ý thơ gợi những cung bậc cảm xúc từ ướm hỏi xa xôi đến nỗi khắc khoải lắng nghe lời đồng vọng. Qua đó giúp ta cảm tấm chân tình của người ở lại, tình đồng bào với người cất bước.

Nỗi nhớ dâng trào hơn khi người chiến sĩ nhớ về người mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con nhỏ lên rẫy, những lớp bình dân học vụ, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan hát vang bài ca, những tiếng mõ chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng. Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào phai trong lòng người chiến sĩ.

Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian.

Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.

Mời bạn tham khảo 🌟 Mở Bài Việt Bắc 🌟 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền thơ ca hiện đại nước nhà, một cây bút trữ tình chính trị nổi bật với những bài thơ lưu lại trong trái tim người đọc nhiều dấu ấn, cảm xúc. “Việt Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu trên chặng đường thơ ông, góp phần khẳng định tên tuổi, tâm hồn và tài năng của hồn thơ này. Trong tác phẩm, đoạn thơ thứ năm đã thực sự để lại nhiều nghĩ suy trong tâm hồn mỗi bạn đọc, góp vào sự sâu sắc và độc đáo của bài thơ.

Nhà thơ Tố Hữu là người con đất Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế, cái nôi của văn học dân gian Việt Nam. Có lẽ những nét đẹp của mảnh đất ấy đã bồi tụ nên một hồn thơ dạt dào cảm xúc, sáng tác nên những vần thơ, trang thơ đượm sâu tình cảm, cảm xúc. Nói đến Tố Hữu và sự nghiệp văn học của ông, nhiều người nói chặng đường thơ ông gần như song hành với những giai đoạn lịch sử quan trọng, đáng nhớ của dân tộc. Những tác phẩm ở mỗi thời kỳ của nhà thơ đều có những nét đẹp riêng lưu lại nhiều ấn tượng.

Việt Bắc, cái nôi của Cách mạng Việt Nam, cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp, miền đất ấy, con người ấy đã chắp cánh cho hồn thơ người nghệ sĩ, người cán bộ cách mạng Tố Hữu viết nên bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ thứ sáu trong tác phẩm được đánh giá là một đoạn thơ đặc sắc với nhiều giá trị nội dung, nghệ thuật ý nghĩa.

Nghĩ về người con Việt Bắc, những đồng bào thân thương một thời gắn bó thủy chung, nghĩa tình, một nỗi nhớ da diết, đậm sâu bỗng trào dâng trong trái tim, tâm hồn người cán bộ cách mạng, hay có lẽ cũng chính là tiếng lòng Tố Hữu. Nhà thơ gợi ra hình ảnh người mẹ của nhân dân, người mẹ nuôi bộ đội với hình ảnh gần gũi và rất đỗi thiêng liêng:

Một người mẹ chịu thương chịu khó. Một người mẹ tảo tần vì con, vì bộ đội, vì đất nước, nhân dân. Đó là người mẹ Việt Bắc từng ngày lao động miệt mài đóng góp cho cuộc kháng chiến, từng ngày nuôi giấu cán bộ cách mạng. Viết về người mẹ ấy, nhà thơ Tố Hữu có hình ảnh “nắng cháy lưng”. Không tả rõ nét dáng hình người mẹ Việt Bắc, chỉ ba chữ đó thôi cũng đã đủ tái hiện lên chân thực, trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp lao động của người mẹ Việt Nam thời chiến.

Gần gũi, bình dị nhưng vô cùng mạnh mẽ, trang thơ Tố Hữu cho ta thấy mẹ là một phần của những trang sử hào hùng, là hậu phương đắp bồi yêu thương, sức mạnh cho những người lính chắc tay súng ra chiến trường giành lại tự do cho dân tộc, đất nước.

Tiếp nối trong dòng chảy ký ức dạt dào, thiết tha ấy, nhà thơ Tố Hữu gợi ra một bức tranh Việt Bắc với khung cảnh, với nhịp sống, âm thanh quen thuộc:

Bên cạnh cái khốc liệt của khói lửa chiến tranh, cái tang thương của mất mát, hy sinh, vẫn còn rộn rã ở đó một cuộc sống ngập tràn âm thanh nơi miền cao Việt Bắc. Bên cạnh những giờ tập luyện mệt nhoài chuẩn bị cho cuộc chiến, những giây phút căng thẳng khi đối mặt địch, các cán bộ cách mạng của ta cũng hòa mình vào cuộc sống nơi núi rừng Việt Bắc, cùng đồng bào, cùng nhân dân xây dựng cuộc sống.

Những người cán bộ đến gieo hy vọng về ngày độc lập. Họ gieo con chữ, họ thắp niềm tin, những lớp Nha bình dân học vụ để xóa mù chữ cho đồng bào vì thế mà được mở ra ở khắp mọi nơi. Hồ hởi, phấn chấn và ngập tràn hy vọng, không khí đó dường như ắp đầy khắp các bản làng Việt Bắc, ngập tràn trong hình dung tưởng tượng của mỗi người đọc khi đến với trang thơ giàu hình ảnh, cảm xúc của Tố Hữu.

Với vốn ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh của mình, nhà thơ Tố Hữu đã giúp người đọc hình dung ra không gian, không khí rộn ràng niềm vui của quân dân Việt Bắc sau những giờ phút chiến đấu ác liệt. Văng vẳng trong không gian thanh bình ấy là tiếng “mõ rừng chiều” gọi trâu về của người lao động.

Âm thanh tiếng giã gạo đêm khuya, tiếng chày tiếng cối hòa cùng tiếng suối xa càng đậm tô thêm bức tranh sinh hoạt thân thương, gần gũi, tràn đầy sức sống nơi núi rừng Việt Bắc. Những âm thanh ấy cùng hòa quyện lại, một cách rất riêng, tạo nên một khúc nhạc ấn tượng mà chỉ riêng núi rừng Việt Bắc có, do những con người Việt Bắc cùng cán bộ cách mạng thời kỳ kháng chiến xây đắp nên.

Bài thơ “Việt Bắc” đã gieo vào trái tim người đọc bao thế hệ rất nhiều cảm xúc, nghĩ suy khác nhau. Ở mỗi đoạn thơ, mỗi hình ảnh, nhịp điệu thơ đều chứa chan tâm tư người chiến sĩ hay cũng chính là nhà thơ. Khổ thơ thứ năm đã góp phần đem đến sự thành công cho tác phẩm, những giá trị nội dung, nghệ thuật của “Việt Bắc” đã góp phần làm tăng sự giàu có, đa dạng trong chùm thơ kháng chiến đồng thời khẳng định tài năng, sự tinh tế trong hồn thơ Tố Hữu.

Chia sẻ 🌼 Kết Bài Việt Bắc 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất

Tố Hữu vừa là một nhà chính trị tài ba vừa là một nhà thơ tài hoa. Nói về cảm hứng nghệ thuật, Tố Hữu có lần chia sẻ: “Tôi đã viết về đất nước, về người dân mình như viết về người phụ nữ mà mình yêu”. Có lẽ bởi vậy, người ta biết đến nhà thơ nhiều với cái tên gọi “nhà thơ với những bài thơ trữ tình chính trị” sâu sắc. Ông viết về những vấn đề, những sự kiện trọng đại có ý nghĩa lịch sử của thời đại với những hình tượng mang đậm màu sắc sử thi.

Đọc đoạn 6 của bài thơ Việt Bắc ta hiểu được sâu sắc nỗi nhớ của người ra đi và thiên nhiên, con người Việt Bắc và cuộc sống sinh hoạt kháng chiến:

Trong đoạn thơ, từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng” điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết sâu đậm của người đi không chỉ với những cảnh vật cụ thể, thân thuộc mà còn nỗi nhớ bao trùm, toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc. Nhớ những ngày cùng nhau chia sẻ khó khăn gian khổ”

Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa. Hình ảnh tượng trưng: “Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa “chia, sẻ, cùng” diễn tả được mối tình cảm “chia ngọt sẻ bùi” giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong “củ sắn”, “bát cơm”, “chăn sui”… mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp. Nhớ tình cảm của những người mẹ Việt Bắc:

Hình ảnh chọn lọc “Người mẹ nắng cháy lưng…” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi.

Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả, tâm trí họ còn in đậm những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương những nếp sống yên bình thơ mộng của cuộc sống núi rừng thời kháng chiến. Nỗi nhớ hướng đến lớp học i tờ- hình ảnh cảm động của phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ ngay những ngày đầu kháng chiến khi được học con chữ Bác Hồ.

Khép lại những thước phim về cuộc sống chiến khu giản dị, nghĩa tình là những âm thanh quen thuộc thân thương:

Đọc hai câu thơ thấy văng vẳng những khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà thơ mộng. Lời thơ rứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa Việt Bắc.

Với đoạn thơ cùng với việc sử dụng các biện pháp so sánh, những hình ảnh quen thuộc gần gũi Tố Hữu đã giúp người đọc cảm nhận chân thực được cuộc sống của người dân Việt Bắc và trở thành nỗi nhớ chung của con người Việt Nam. Nỗi nhớ, lòng yêu nước trong “Việt Bắc” mãi là điểm sáng góp phần khẳng định giá trị tác phẩm và tài năng của nhà thơ.

Tham khảo văn mẫu 🌟 Nghị Luận Việt Bắc 🌟 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trong mảng văn học cách mạng nói riêng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Ở Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ.

Chính vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn tình cảm, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố Hữu mà qua đó dường như nhà văn đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang sử vẻ vang của đất nước như những thước phim quay chậm.

Bài thơ được sáng tác vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với người dân và thiên nhiên Việt Bắc, nay trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến, nhà thơ xúc động viết nên bài thơ này.

Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao. Trong cảm xúc lắng đọng ngậm ngùi của buổi chia li, việc sử dụng thể thơ này để biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc, người dân Việt Bắc là hoàn toàn hợp lí.

Người chiến sĩ khi về xuôi với sự lưu luyến khôn nguôi đối với mảnh đất Việt Bắc đã dần trải lòng ra qua từng câu chữ:

Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng.

Người chiến sĩ thấy xao xuyến bồi hồi khi nhớ lại hương vị của củ sắn lùi, bắt cơm sẻ nửa tuy bình dị nhưng nồng thắm nghĩa tình. Hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy làm việc là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào nuôi quân của hậu phương nơi núi rừng Việt Bắc. Nhớ những lớp học i tờ, nhớ khúc hát ca vang rừng núi của đoàn dân quân…

Những kỉ niệm ấy quả thực vô cùng đẹp đẽ và đã trở thành một phần máu thịt của anh. Chẳng cần những lời nói chia tay lưu luyến nhưng qua việc tái hiện lại một loạt các câu hỏi như thế ta cũng đủ thấy được tình cảm sâu đậm, sự gắn bó tha thiết giữa những người cán bộ và người dân.

Có thể nói rằng chỉ qua một vài câu thơ nhưng dòng chảy cuộc sống như đang ngưng tụ lại trên từng câu chữ. Con ngườiViệt Bắc như là trung tâm trong bức tranh đó với tình cảm quân dân thắm thiết và sâu nặng. Bài thơ Việt Bắc để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ mang tính dân tộc được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ.

Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.

Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện lại được không khí vào những năm kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ đẹp của tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc với nhân dân.

Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua một thời gian dài sống và gắn bó với người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.

Ngoài ra, tại chúng tôi còn có 🌺 Phân Tích Việt Bắc Ta Về Mình Có Nhớ Ta 🌺 10 Bài Văn Hay

Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta cuối cùng cũng giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân và dân ta là bài thơ Việt Bắc.

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân.

Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…

Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân – dân, tiền tuyến – hậu phương, miền xuôi – ngược, cán bộ – quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,… Trong đó, đoạn thơ thứ 6 viết về những kỷ niệm kháng chiến để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc:

Củ sắn lùi thì “chia”, bát cơm thì “sẻ”, chăn sui thì “đắp cùng”. Đúng, cái đẹp nhất là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui. Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong cuộc sống gian nan thiếu thốn; càng sắt son thấm thía trong khó khăn thử thách.

Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, chứa đựng những dung động, tình cảm chân thật, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với cuộc sống và con người của chiến khu Việt Bắc.

Tác giả khẳng định vai trò Việt Bắc là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Ở bất cứ đâu trên đất nước này, bất cứ giai đoạn nào con người sống trong cảnh lầm than của ách đô hộ hãy hướng về Việt Bắc, về chiến khu, lấy đó làm động lực để chiến đấu vì chính nơi đây đã chiến thắng vẻ vang cho cả dân tộc.

Bên cạnh lời khẳng định tầm quan trọng của căn cứ cách mạng, người ra đi một lần nữa khẳng định tình cảm của mình: người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến gian khổ để lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên nhiên, địa danh nơi đây. Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười lăm năm gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở.

Bên cạnh đó tác giả còn thể nêu cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mạng và độc lập của nước nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình – ta” vốn quen thuộc trong dân gian và các câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.

Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Việt Bắc Những Đường Việt Bắc Của Ta 🌹 12 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất

Nếu nói Phan Bội Châu là người đã mở đường cho nền thơ ca trữ tình chính trị thì có lẽ mấy mươi năm sau Tố Hữu chính là người đã mang đạt đến đỉnh cao, trở thành một hiện tượng có giá trị lâu dài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng. Ngay từ khi còn trẻ Tố Hữu đã thể hiện mình là một nhà thơ, một người chiến sĩ cách mạng tận tâm, tận lực cả trong sáng tác và chiến đấu.

Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng từ khi mới 18 tuổi và trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ đã trở thành bước đệm cho sự nghiệp sáng tác nhiều vẻ vang của nhà thơ. Mà đường thơ của Tố Hữu thì luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phục vị và đóng góp nhiều cho kháng chiến, có thể xem như là những tư liệu lịch sử được viết bằng văn chương, kết tinh của hai tính trữ tình và tính chính trị xuyên suốt.

Thật không quá khi nói Tố Hữu là một nhà thơ lý tưởng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, với phong cách sáng tác ổn định, dồi dào, luôn hướng đến cái ta chung, hướng đến những tình yêu lớn, bộc lộ lòng trung thành với cách mạng, sự ca ngợi Đảng và đất nước. Nếu như Từ ấy khiến tên tuổi Tố Hữu bất chợt vụt sáng trên thi đàn Việt Nam, thì Việt Bắc chính là chiến công vang dội nhất của nhà thơ trong sự nghiệp sáng tác, thể hiện rõ ràng sự trưởng thành và hoàn chỉnh trong tư tưởng, phong cách cũng như bút lực của nhà thơ.

Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, tháng 7/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ trên không nổ ra và giành thắng lợi tuyệt đối, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, pháp rút quân về nước, miền Bắc lập lại hòa bình, chuẩn bị bước sang giai đoạn xây dựng và khôi phục đất nước sau chiến tranh.

Đến tháng 10/1954, nhận thấy tình hình đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị dời toàn bộ cơ quan đầu não của đất nước từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội để phục vụ cho các giai đoạn chính trị tiếp theo của đất nước.

Như vậy sau gần 15 năm trời gắn bó, sống và chiến đấu cùng nhau như những người thân ruột thịt, nếm trải nhiều cay đắng ngọt bùi, thì đến hôm nay những chiến sĩ cách mạng phải chia tay vùng đất và những con người thấm đẫm ân tình thủy chung để trở về miền xuôi chờ nhiệm vụ mới.

Nhân sự kiện lịch sử có tính thời sự ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để bộc lộ những tình cảm, những ân tình của người ra đi đối với người ở lại, nổi bật trong đó là đoạn thơ sau:

Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng đường chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách mạng phải đối mặt với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn. Nhờ ra đi khẳng định tấm lòng sắc son khi luôn nhớ đến những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ “ngọt bùi đắng cay”.

Mà mai đây khi về miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ nguyên những kỷ niệm đáng nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình, những con người chân chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương nhau, chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.

Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng hoạt động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian khó, sao có thể quên những “lớp học i tờ”, những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô nuôi cách mạng, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan nhiều khó khăn, những tiếng chày, tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những tình cảm quý giá và trân trọng nhất.

Việt Bắc là một tác phẩm xuất sắc, đỉnh cao trong các sáng tác của Tố Hữu cũng như trong nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa, lối xưng hô “ta-mình” thân thiết gắn bó, lời thơ tình cảm, thấm đẫm ân tình, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Bộc lộ được sự lưu luyến, bịn rịn phút chia ly, tình cảm quân dân gắn bó sâu nặng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ nhiều gian khổ, khó khăn.

Đồng thời thi phẩm cũng có ý nghĩa đúc kết một giai đoạn lịch sử hết sức gian lao, nhiều vẻ vang, lắm hào hùng của dân tộc, thể hiện tấm lòng ân nghĩa thủy chung của cách mạng với chiến khu Việt bắc, lòng tự hào, niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Gợi ý cho bạn 🌼 Phân Tích Việt Bắc Nhớ Gì Như Nhớ Người Yêu 🌼 10 Mẫu Được chúng tôi Chọn Lọc

“Việt Bắc” là bài thơ kiệt tác của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sâu chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 – 1954), bài thơ “Việt Bắc” là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.

Bài thơ “Việt Bắc” mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc.

Da diết trong “Việt Bắc” là nỗi nhớ khôn nguôi. Trong đoạn thơ sau, người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ:

Một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui… trong những tháng ngày “đắng cay ngọt bùi” ấy, người về có bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết:

Các từ ngữ: thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nước thêm ấm áp.

Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Điệp ngữ “nhớ sao” diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối… của khúc nhạc rừng chiến khu.

“Việt Bắc” là sự kết tinh nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc. Cách đối đáp giữa mình với ta theo lối ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở người về gắn liền với bao kỉ niệm đắng cay, ngọt bùi trong suốt mười lăm năm trời, từ ngày “kháng Nhật thuở còn Việt Minh” đến ngày chiến thắng giòn giã: “Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về”.

Hình ảnh quân dân kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, đẹp tươi… tất cả đã chung đúc một cách hài hòa, tuyệt đẹp làm nên tính dân tộc và tính hiện đại của bài thơ tuyệt bút này. “Việt Bắc” là khúc tình ca cũng là bản anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Nó đã nâng cao tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Tình ân nghĩa thủy chung là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là hành trang của mỗi chúng ta.

“Thơ hay phải có dư vị văn chương” như có người đã nói. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy “dư vị” của nó. Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta đang đổi mới từng ngày từng giờ. Tuy đến nay (2008), Việt Bắc chưa có cảnh tượng “Phố phường như nấm, như măng giữa trời”, nhưng ai cũng cảm thấy lạc quan và hi vọng. Dự báo ấy chính là “dư vị văn chương” của bài thơ “Việt Bắc”.

Có thể bạn sẽ thích 🌹 Phân Tích Việt Bắc Ta Đi Ta Nhớ Những Ngày 🌹 10 Bài Hay

Tố Hữu, một cái tên không hề xa lạ với bạn đọc yêu thơ. Quả thật là vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định Tố Hữu đã và sẽ luôn là ngọn cờ tiên phong tiêu biểu cho nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ gắn bó chặt chẽ với nhau, sự hòa hợp giữa chất trữ tình và chính trị được ẩn hiện qua từng tác phẩm mà nổi bật nhất là bài Việt Bắc.

Đây là bài thơ ghi lại những tình cảm sâu nặng, những nỗi nhớ da diết của một người cán bộ về xuôi với con người thiên nhiên Tây Bắc. Đoạn thơ sau đã thể hiện sự nhớ nhung của tác giả với cảnh, người cùng cuộc kháng chiến:

Việt Bắc là căn cứ cách Mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến chống pháp. Thiên nhiên và đồng bào Việt Bắc đã cưu mang, che chở cho Đảng và Chính phủ suốt 15 năm trời. Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào khoảng thời gian tháng 10/1954, là lúc các cơ quan Trung ương của Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc để trở về Hà Nội.

Đây là một bài thơ dài ghi lại tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân và cũng là lời khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với Việt Bắc, với cuộc kháng chiến, với cách mạng. Đoạn trích trên nằm ở khổ ba của phần I bài thơ nói về những kỷ niệm cùng nỗi nhớ với thiên nhiên con người Việt Bắc.

Những kỷ niệm đời sống kháng chiến như bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng gợi ra cái nghĩa tình sâu nặng, sự đồng cam cộng khổ của đồng bào Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ.

Hình ảnh người mẹ nắng cháy lưng địu con lên rẫy hái từng bắp ngô đã gợi ra cái vất vả nhọc nhằn của con người Việt Bắc. Hình ảnh lớp học i tờ, âm thanh tiếng mõ, tiếng chày đêm lại mở ra một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến. Đó là những giờ phút đầm ấm thanh bình toả ra niềm vui niềm lạc quan cách mạng. Đoạn thơ là những cung bậc khác nhau của đời sống kháng chiến đọng lại trong ký ức người ra đi những ký ức không phai, những dáng hình thân thuộc.

Cả đoạn thơ mang đậm màu sắc dân tộc, thể hiện rõ hồn thơ của Tố Hữu. Điệp từ “nhớ” cùng lối so sánh đặc biệt để bộc lộ một cảm xúc thương nhớ dạt dào.Cách gieo vần, sử dụng tài tình thể thơ lục bát đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái. Việc liệt kê một loạt những hình ảnh cùng địa danh của Việt Bắc đã khắc họa thật sâu nỗi niềm thương nhớ của một người chiến sĩ – thi sĩ đối với quê hương thứ hai của mình.

Đoạn thơ trên chính là bản tình ca về lòng chung thủy sắt son, chính là tiếng lòng của nhà thơ, hay cũng chính là của những người Việt Nam trong kháng chiến. Với những câu thơ dạt dào cảm xúc, Tố Hữu đã thể hiện thành công tình cảm của người cán bộ dành cho thiên nhiên, nhân dân Việt Bắc không chỉ là tình cảm công dân xã hội mà còn là sự sâu nặng như tình yêu lứa đôi. Nhờ vậy Việt Bắc đã trở thành thành phần tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.

Bằng những vần thơ đậm chất dân tộc, nỗi nhớ cùng tình cảm chung thủy sắt son giữa người cán bộ với nhân dân, thiên nhiên Việt Bắc cùng cuộc kháng chiến được khắc họa rõ nét. Thật hiển nhiên, Tố Hữu xứng đáng trở thành ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

Tiếp theo đón đọc 🌟 Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Việt Bắc 🌟 14 Bài Văn Hay Nhất

Tố Hữu là một trong những nhà thơ của lí tưởng và cộng sản, ông xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam với phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông mang đậm chất trữ tình, lãng mạn, nhưng vẫn bao gồm đó là hơi thở của dân tộc, của cách mạng. Tiêu biểu cho giọng thơ rất riêng và độc đáo của Tố Hữu phải nhắc đến bài thơ Việt Bắc – bài thơ là tình cảm, là tinh thần yêu nước của con người Việt Nam.

Bài thơ được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở người đi. Trong những lời đối đáp của người đi, đã có biết bao nhiêu tình cảm nhớ nhung, da diết; và một trong những nỗi nhớ ấy là:

Việt Bắc là tác phẩm nằm trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở, người đi vô cùng tự nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết bao kỉ niệm ùa về. Dường như mọi thứ bỗng thức dậy và trôi trong mạch cảm xúc dào dạt tưởng chừng không bao giờ cạn.

Chỉ riêng đoạn thơ 10 câu này, Tố Hữu đã sử dụng từ “nhớ” tới bốn lần trong lòng người đi, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ khác đã ùa về như lớp sóng miên man không dịu. Mỗi lần niềm nhớ rung lên là bao kỉ niệm ùa về, bao nghĩa tình được bồi đắp. Có thể nói nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm dấu yêu.

Nổi bật trong đó là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương:

Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những người nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, những người phụ nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán bộ.

Tình quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Hẳn trong trái tim nhà thơ đã để thương nhớ những người nhân dân Việt Bắc biết hi sinh vì Cách mạng. Nhưng đó chẳng phải là kết thúc nỗi nhớ, tình cảm lại tỏa ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi:

Những núi đèo bát ngát, những dòng suối mát tronga, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi hồi cùng những ngọt ngào rưng rưng, người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.

Có thể thấy, đoạn thơ ngắn chỉ với 10 câu thơ đã thể hiện rõ nỗi nhớ da diết của người đi Việt Bắc, đó là tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc bằng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển; hình ảnh trong sáng giản dị, gợi cảm, đoạn thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với độc giả. Đọc đoạn thơ, ta thấy bịn rịn một tấm lòng nhớ thương da diết vô hạn.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Việt Bắc 12 Câu Tiếp 🍀 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.

Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.

Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi. Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về mới mở lời. Trong khổ thơ thứ 4, 5 và 6, lời người về cũng chí tình chí nghĩa:

Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:

Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng người ở lại – Việt Bắc.

Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.

Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:

Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng (mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).

Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:

Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:

Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình; nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.

“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng, thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ.

Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”. Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.

SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ 5 Việt Bắc 💧 10 Bài Văn Mẫu Đoạn 5 Hay Nhất

Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, quê Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ham thích văn chương. Chính truyền thống gia đình và cảnh sắc thơ mộng của xứ Huế cùng những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc góp phần quan trọng trong việc hình thành hồn thơ Tố Hữu.

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Một nhà thơ được đánh giá là người mở đường, là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng. Có thể nói ở Tố Hữu, con người chính trị với con người nhà thơ thống nhất là một, sự nghiệp thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng. Con đường thơ của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.

Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác trong thời kì dân ta đánh thắng quân giặc ở trận Điện Biên Phủ, năm 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi ông đã bắt tay vào sáng tác tác phẩm này, nhằm ca ngợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng cuộc sống mới. Mở đầu bài thơ là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây; là sự chia li của kẻ đi, người ở đầy lưu luyến, bồi hồi. Đáp lại những ân tình của người ở lại, trong khổ thơ thứ 5 và 6 lời người đi cũng tha thiết không kém:

Người ra đi, khẳng định, đinh ninh rằng lòng mình trước sau như trước, luôn mặn mà. Và cái nghĩa tình đó còn được so sánh với nước trong nguồn, dạt dào, vô tận, không bao giờ cạn. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc.

Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người.

Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.

Có thể nói, con người, cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã in đậm trong lòng các chiến sĩ cách mạng. Khi trở về thủ đô, họ nhớ tất cả những gì gắn với Việt Bắc. Đó là những con người chân chất, hiền hậu của núi rừng. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài Việt Bắc.

Người ta gọi “Việt Bắc” là một điển hình của thơ ca cách mạng bởi nó là sự kết hợp của chất trữ tình và chính trị. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện rất rõ tính dân tộc qua việc sử dụng thể thơ truyền thống cùng lối hát đối đáp quen thuộc, giản dị, gần gũi. Chính bởi những điều đó mà bài thơ đã khơi gợi được những tình cảm cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc là tấm lòng thủy chung son sắc.

“Việt Bắc” không chỉ là câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ kể về cuộc chia tay giữa người cán bộ kháng và đồng bào Việt Bắc mà nó còn cho người đọc thấy được mười lăm năm chiến đấu khó khăn, gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Bởi lẽ đó mà đã bao năm nay Việt Bắc vẫn luôn có một vị trí nhất định trong tâm chí độc giả.

Đón đọc tuyển tập 🍀 Phân Tích Khổ 7 Việt Bắc 🍀 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

6 Kế Hoạch Tổ Chức 20

Ngày 20/10 hằng năm được chọn là ngày quốc tế phụ nữ, vào ngày này các bạn nam trong trường học thường tổ chức những kế hoạch nhỏ để kỉ niệm và chúc mừng các chị em phụ nữ. Nhưng làm thế nào để đưa ra những kế hoạch mà các bạn nữ nhớ mãi không quên quả là điều khó khăn đúng không nào? Để giải quyết vấn đề trên thì sau đây chúng mình còn đưa đến cho các bạn nam những kế hoạch làm cho những bạn nữ của lớp mình bất ngờ tròng ngày này.

Tổ chức trò chơi

Vào 20/10, thì việc tạo ra những trò chơi vô cùng hấp dẫn mà nói đối với các bạn nữ càng thêm thích thú, nhưng trò chơi nào thích hợp thì để nói về phụ nữ thì chắc các bạn nam phải suy nghĩ nhiều. Vì thế chúng mình xin đưa ra cho các bạn một trò chơi, đảm bảo các bạn nữ cảm thấy ngày 20/10 của mình thật ý nghĩa.

Trò chơi: Khi phụ nữ cần

Cách chơi:

Người điều hành chia hội viên thành 02 đội (là nam) và yêu cầu các đội bầu đội trưởng. Hai đội đứng thành hàng trước vạch phân cách. Người điều hành đứng cách các đội khoảng 3-5 m.

Người điều hành hô to “Phụ nữ cần”

Hai đội hô to “Cần gì?”

Người điều hành nói tên một đồ vật và các đội nhanh chóng tìm vật đó đưa cho đội trưởng để trao cho người điều hành. Người điều hành chỉ nhận đồ từ đội trưởng nào mang lên nhanh nhất.

Tổng kết: Người điều hành nhận được nhiều đồ từ đội nào thì đội đó thắng cuộc, đội thua bị phạt.

Tổ chức một bữa tiệc nho nhỏ

Tổ chức trò chơi

Một các tổ chức 20/10 đơn giản nhất mà tất cả các bạn nam có thể thực hiện được với chi phí rất rẻ đó là tổ chức các bữa tiệc vui vẻ.

Các bạn nam có thể cùng góp tiền và chuẩn bị trước các món ăn mà đa số các bạn nữ trong lớp đều thích, những món ăn vặt ngon và hấp dẫn như bánh tráng trộn, cá viên chiên, bim bim,… Các bạn sẽ cùng nhau tham gia bữa tiệc này trong giờ ra chơi hay sinh hoạt lớp.

Trong những lúc ăn uống, các bạn có thể ôn lại những kỉ niệm mà mình từng gắn bó với nhau, trò chuyện với nhau hay là tạo cho các bạn nữ ấn tượng bằng những bài hát tôn vinh phụ nữ, phần thưởng là 1 suất ăn.

Tổ chức một bữa tiệc nho nhỏ

Chiếc vòng tay handmade

Tổ chức một bữa tiệc nho nhỏ

Làm thế nào để ngày 20 tháng 10 của các bạn nữ vừa vui vừa ý nghĩa, lại có quà mang về? Câu trả lời là các bạn nam hãy chuẩn bị những chiếc vòng tay handmade xinh xắn để đốn tim các bạn nữ ngay đi nào.

Việc tổ chức mùng 20/10 cho lớp bằng cách này ngoài tạo bất ngờ cho các bạn nữ thì còn giúp gắn kết tình bạn giữa các thành viên trong lớp với nhau. Rất ý nghĩa đúng không nào?

Tặng những bông hoa xinh đẹp

Chiếc vòng tay handmade

Hoa luôn là món quà hết sức quen thuộc và ý nghĩa được sử dụng trong hầu hết các ngày lễ của năm, và ngày 20/10 cũng không ngoại lệ. Nhưng làm thế nào để tặng bạn nữ những bông hoa vô cùng sinh đẹp và làm cho bạn nữ nhớ mãi những ấn tượng đó là vô cùng khó khăn đúng không nào.

Tặng những bông hoa khô do chính tay những bạn nam của lớp ép và chuẩn bị. Những bông hoa tươi thì không thể giữ được lâu, nhưng những bông hoa khô thì có thể giữ được lâu, đồng thời thể hiện tình bạn mãi mãi bền lâu

Bốc thăm trúng thưởng sẽ giúp các bạn nữ thử tài may mắn của mình, người may mắn sẽ chọn cho mình một bông hoa đẹp, người không may mắn sẽ không có hoa hoặc cho mình những bông hoa xấu. Nhưng điều bất ngờ ở đây, tất cả những bạn nữ của lớp đều nhận được bông hoa đẹp cả.

Ghi những lời chúc của mình lên những cánh hoa khô, sau đó tặng cho các bạn nữ để làm kỷ niệm.

Những tấm thiệp ngẫu nhiên

Tặng những bông hoa xinh đẹp

Thiệp chính là những món quà ít tốn kém chi phí nhất mà bất kỳ bạn nam nào cũng có thể mua tặng cho các bạn nữ trong lớp. Tuy nhiên để tạo sự ấn tượng và bất ngờ các bạn nam có thể tổ chức tặng thiệp ngẫu nhiên. Trước ngày 20/10 các bạn cùng nhau góp chi phí và chọn mua nhiều loại thiệp khác nhau.

Sau đó các bạn nam chia ra viết từng lời chúc của mình, đặc biệt hơn các bạn nam có thể viết những lời chúc vui, bựa rồi nhấn mạnh bằng những loại bút dạ quang màu tươi sáng. Trong ngày 20/10, hãy tặng ngẫu nhiên cho các bạn nữ và yêu cầu họ đọc trước lớp để cùng nhau tận hưởng những giây phút vui vẻ và ý nghĩa nhất.

Hãy yên tâm là cho dù bạn không có hoa tay, trang trí không được đẹp nhưng các bạn nữ sẽ cực kì cảm động. Vào cuối buổi học hôm ấy, các bạn nam sẽ tự tay viết lên những lời chúc gửi đến các bạn nữ và cùng nhau chụp ảnh lưu niệm. Cách làm này tuy không được hoành tráng cho lắm nhưng thể hiện được sự quan tâm của các bạn nam đến “phe tóc dài” của lớp .

Những tấm thiệp ngẫu nhiên

Tổ chức chương trình ấn tượng

Với tổ chức 20/10 cho lớp như vậy bạn sẽ tạo được sự bất ngờ cho các bạn nữ qua những năng khiếu mà bạn có hay thể hiện một bài hát thật hay và ý nghĩa. Chắc chắn phái nữ sẽ không khỏi thích thú và ngưỡng mộ đấy.

Hoặc các bạn có thể thi nam vương trong lớp, các bạn chọn ra những bạn nam. Sau đó hóa trang thành thành những bạn nữ, làm những hình vô cùng đáng yêu, vui nhộn, và mặc những bộ đồ do mình tạo ra. Cùng diễn catwalk và giám khảo đó chính là các bạn nữ, chọn ra những nam sinh giả nữ đáng yêu nhất.

Tổ chức chương trình ấn tượng

Đăng bởi: Sơn Ngô

Từ khoá: 6 Kế hoạch tổ chức 20 -10 ý nghĩa nhất cho các bạn gái trong lớp bất ngờ

Tháng 6 Nên Đi Du Lịch Ở Đâu Việt Nam? 6 Địa Điểm ‘Vàng’ Cho Hè 2023

Tháng 6 du lịch miền Bắc

Vi vu miền Bắc là sự lựa chọn cho những du khách ở Hà Nội và lân cận. Khi quỹ thời gian eo hẹp, tài chính lại không dư dả thì một chuyến đi lên các tỉnh miền núi phía Bắc đắm mình trong không khí mát mẻ, trong lành là ước muốn của nhiều người. Tháng 6 nên đi du lịch ở đâu Việt Nam? Đồi chè Mộc Châu hay Thái Nguyên; thác Bản Giốc Cao Bằng; Sapa mùa nước đổ; mùa vải Bắc Giang; mùa lúa vàng Ninh Bình…là những điểm đến không thể bỏ lỡ trong tháng hè này.

Mộc Châu – Sơn La

Trong các điểm du lịch miền Bắc tháng 6 bạn được gợi ý nên tới Mộc Châu để chiêm ngưỡng và chụp ảnh với những đồi chè rộng bao la, bát ngát. Ngoài ra, đây cũng là thời điểm những khu rừng mận chín đỏ tỏa hương thơm dịu ngọt; vừa thật lý tưởng cho những tay săn mận đúng mùa với giá chỉ 15.000VNĐ/kg, thêm vào đó nhiều người mê sống ảo cũng chẳng ngại đường xa tới đây để lưu lại những bức hình tuyệt đẹp. Một vài địa chỉ để bạn ghé qua: Thung Lũng Mận Nà Ka, Bản Ôn, Ba Phách…

Mù Cang Chải – Yên Bái

Tháng 6 Mộc Châu mùa mận chín

Tại sao Mù Cang Chải lại là đáp án của câu hỏi tháng 6 nên đi du lịch ở đâu Việt Nam? Bởi thời gian cuối tháng 5 – đầu tháng 6 là lúc mùa nước đổ tại Mù Cang Chải, cảnh vật như một bức tranh thiên nhiên “đã mắt”. Tại đây bạn được tận mắt ngắm nhìn những cánh đồng ruộng bậc thang kỳ vĩ với diện tích lên tới 2.200ha lóng lánh dưới nắng như những chiếc gương khổng lồ, xen kẽ đó là những đồi núi xanh, hùng vĩ, vô cùng ấn tượng. Đừng ngại ngần hòa mình vào cuộc sống mộc mạc của những người dân mến khách nơi đây để tìm hiểu những nét đẹp văn hóa rất thú vị.

Du lịch miền Trung tháng 6

Sự kiện “bay trên mùa nước đổ” diễn ra tại Mù Cang Chải năm 2023

Tháng 6 nên đi du lịch ở đâu Việt Nam? Các địa điểm miền Trung hấp dẫn sẽ không làm bạn thất vọng khi đi ngay hè này. Bạn có thể thỏa thích tắm biển Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn… hay chọn tham quan phố cổ Hội An trầm lắng; nếu muốn đổi gió bạn theo một chuyến xe tới thành phố ngàn hoa Đà Lạt đắm chìm trong cảm giác mát mẻ giữa mùa hè oi bức.

Đà Nẵng

Mặc dù có rất nhiều lựa chọn cho chuyến đi tháng 6 nhưng luhanhvietnam vẫn khuyên bạn nên tới Đà Nẵng trải qua những ngày thú vị tại thành phố đáng sống nhất Việt Nam. Những ngày tháng 6 đầy nắng tại Đà Nẵng là dịp lý tưởng để du khách phơi mình trên những bãi biển tuyệt đẹp như Mỹ Khê, Non Nước, Bắc Mỹ An… ngắm nhìn thành phố phát triển này trên những cây cầu. Hay thời tiết cũng rất thuận lợi để bạn tham quan các điểm lân cận: Cố Đô Huế, Thánh Địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An,…

Phan Thiết – Bình Thuận

Đà Nẵng là điểm đến miền Trung nên đi tháng 6

Bạn có thể đến du lịch Phan Thiết vào mọi thời điểm trong năm, tuy nhiên tháng 6 là khoảng thời gian thích hợp nhất bởi vì lúc này khí hậu ở đây khá ôn hòa, nắng ấm và ít bão; cảnh vật tự nhiên lại rất đẹp. Những ngày cường độ nắng mạnh như từ giữa tháng 6 – tháng 8, không chỉ phù hợp tắm biển giải nhiệt mà lúc này đồi cát Mũi Né cũng trở nên rất rực rỡ; sẽ thật tuyệt vời khi được chơi đùa trên những đồi cát mịn như nhung. Không chỉ vậy, Phan Thiết còn là một điểm đến du lịch văn hóa hấp dẫn, du khách tới đây được tìm hiểu những đặc trưng văn hóa của các cộng đồng dân cư đa dạng người Hoa, người Chăm…

Tháng 6 nên đi du lịch ở đâu Việt Nam? Các điểm đến miền Nam

Trải nghiệm trượt cát tại Phan Thiết

Những người sinh sống tại Sài gòn và các tỉnh lân cận nên đi đâu tháng 6? Các điểm được gợi ý là biển Vũng Tàu, các tỉnh miền Tây như Bến Tre, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, An Giang… Xa hơn, một chuyến du lịch biển đảo như Côn Đảo hay Phú Quốc là ý tưởng không tồi.

Vũng Tàu

Từ lâu, Vũng Tàu luôn được xem như một địa điểm du lịch hấp dẫn có thể đi trong suốt năm với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hoang sơ, kỳ vĩ, khí hậu lại ôn hòa. Nhưng theo kinh nghiệm du lịch Vũng Tàu, bạn nên đến đây trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8 vì lúc ở đây biển lặng, ít mưa, thời tiết tương đối mát mẻ. Vì vậy nếu vẫn phân vân tháng 6 nên đi du lịch ở đâu thì đừng quên Vũng Tàu. Nơi đây chắc chắn sẽ mang đến cho du khách những giờ phút yên bình, thư giãn với những trải nghiệm thú vị, khó quên.

Phú Quốc – Kiên Giang

Vũng Tàu biển xanh trong tháng 6

Nếu đã tới khu vực miền Nam hoặc đang ở gần Kiên Giang thì đừng bỏ qua địa danh du lịch hấp dẫn và nổi tiếng bậc nhất nước ta như Phú Quốc. Đảo ngọc Phú Quốc có tất cả những thứ mà bạn cần cho một chuyến đi mùa hè: Khí hậu mát mẻ, cảnh quan nên thơ, đồ ăn ngon và yên bình là những gì mà chúng ta cần cho một kỳ nghỉ dưỡng tháng 6. Thời gian này nắng vàng như rót mật, nhưng may thay thi thoảng sẽ xuất hiện vài cơn mưa mùa hè bất chợt đủ để xua tan cái nắng gắt gao và mang đến cảm giác thật dễ chịu.

Thời tiết tháng 6 rất thích hợp để đi trong hè

Như vậy, tùy theo nhu cầu và sở thích cá nhân cũng như phụ thuộc các yếu tố: sức khỏe, khả năng tài chính, quỹ thời gian mà du khách cân nhắc lựa chọn điểm đến du lịch tháng 6 này./.

Đăng bởi: Trần Hà

Từ khoá: Tháng 6 nên đi du lịch ở đâu Việt Nam? 6 địa điểm ‘vàng’ cho hè 2023

Trắc Nghiệm Địa Lí 11 Bài 6 (Có Đáp Án) Trắc Nghiệm Địa Lý 11 Bài 6

Trắc nghiệm Địa 11 bài 6 Có đáp án

Câu 1. Lợi thế nào là quan trọng nhất của vai tròdl HOA KÌ trong phát triển kinh tế – xã hội?

A. Tiếp giáp với Ca-na-đa

B. Nằm ở bán cầu Tây

C. Nằm ở trung tâm Bắc Mĩ, tiếp giáp với hai đại dương lớn.

D. Tiếp giáp với khu vực Mĩ La tinh.

Đáp án: C

Giải thích : Mục I, SGK/36 địa lí 11 cơ bản.

Câu 2. Ngoài phần đất ở trung tâm Bắc Mĩ có diện tích hơn 8 triệu km2, HOA KÌ còn bao gồm:

A. Bán đảo A-la-xca và quần đảo Ha-oai

B. Quần đảo Ha-oai và quần đảo Ăng-ti Lớn.

C. Quần đảo Ăng-ti Lớn và quần đảo Ăng-ti Nhỏ

D. Quần đảo Ăng-ti Nhỏ và bán đảo A-la-xca.

Đáp án: A

Giải thích : Mục I, SGK/36 địa lí 11 cơ bản.

Câu 3. Vùng phía Tây Hoa Kì bao gồm:

A. Các dãy núi trẻ cao trung bình trên 2000m, xen giữa là các bồn dịa và cao nguyên.

B. Khu vực gò đồi thấp và các đồng cỏ rộng.

C. Đồng bằng phù sa màu mỡ do hệ thống sông Mi-xi-xi-pi bồi đắp và vùng đồi thấp.

D. Các đồng bằng phù sa ven Đại Tây Dương và dãy núi già A-pa-lat.

Đáp án: A

Giải thích :Mục II, SGK/37 địa lí 11 cơ bản.

Câu 4. Vùng phía Đông Hoa Kì gồm:

A. Vùng rừng tương đối lớn và các đồng bằng ven Thái Bình Dương.

B. Dãy núi già A-pa-lat và các đồng bằng ven Đại Tây Dương.

C. Đồng bằng trung tâm và vùng gò đồi thấp.

D. Vùng núi Coóc-đi-e và các thung lũng rộng lớn.

Đáp án: B

Giải thích :Mục II, SGK/37 – 38 địa lí 11 cơ bản.

Câu 5. Kiểu khí hậu phổ biến ở vùng phía Đông và vùng Trung tâm HOA KÌ là

A. Ôn đới lục địa và hàn đới.

B. Hoang mạc và ôn đới lục địa.

C. Cận nhiệt đới và ôn đới.

D. Cận nhiệt đới và cận xích đạo.

Đáp án: C

Giải thích : Mục II, SGK/37 – 38 địa lí 11 cơ bản.

Câu 6. Khí hậu hoang mạc và bán hoang mạc ở HOA KÌ tập trung chủ yếu ở nơi nào sau đây?

A. Các đồng bằng nhỏ ven Thái Bình Dương.

B. Các bồn địa và cao nguyên ở vùng phía Tây.

C. Các khu vực giữa dãy A-pa-lat và dãy Rốc-ki

D. Các đồi núi ở bán đảo A-la-xca.

Đáp án: B

Giải thích : Mục II, SGK/37 địa lí 11 cơ bản.

Câu 7. Than đá và quặng sắt có trữ lượng rất lớn của Hoa Kì tập trung chủ yếu ở vùng nào sau đây?

A. Vùng phía Tây và vùng Trung tâm.

B. Vùng phía Đông và vùng Trung tâm.

C. vùng Trung tâm và bán đảo A-la-xca.

D. Vùng phía Đông và quần đảo Ha-oai.

Đáp án: B

Giải thích : Mục II, SGK/37 – 38 địa lí 11 cơ bản.

Câu 8. Các loại khoáng sản: vàng, đồng, bôxit, chì của Hoa Kì tập trung củ yếu ở vùng nào sau đây?

A. Vùng phía Đông

B. Vùng phía Tây

C. Vùng Trung tâm

D. Bán đảo A-la-xca và quần đảo Ha-oai

Đáp án: B

Giải thích : Mục II, SGK/37 địa lí 11 cơ bản.

Câu 9. Dầu mỏ và khí tự nhiên của Hoa Kỳ tập trung chủ yếu ở nơi nào sau đây?

A. Bang Tếch-dát, ven vịnh Mê-hi-cô, bán đảo A-la-xca

B. Ven vịnh Mê-hi-cô, dãy A-pa-lát, quần đảo Ha-oai

C. Dãy A-pa-lat, Bồn địa lớn, bang Tếch-dát

D. Bồn địa Lớn và đồng bằng Mi-xi-xi-pi, bán đảo A-la-xca

Đáp án: A

Giải thích :Mục II, SGK/37 địa lí 11 cơ bản.

Câu 10.Thế mạnh về thủy điện của Hoa Kì tập trung chủ yếu ở vùng nào?

A. Vùng phía Tây và vùng phía Đông

B. Vùng phía Đông và vùng Trung tâm

C. Vùng Trung tâm và bán đảo A-la-xca

D. Bán đảo A-la-xca và quần đảo Ha-oai

Đáp án: A

Giải thích : Mục II, SGK/37 địa lí 11 cơ bản.

Câu 11.Ý nào sau đây không đúng với dân cư Hoa Kì?

A. Số dân đứng thứ ba thế giới

B. Dân số ăng nhanh, một phần quan trọng là do nhập cư

C. Dân nhập cư đa số là người Châu Á

D. Dân nhập cư Mĩ La tinh nhập cư nhiều vào Hoa Kì

Đáp án: C

Giải thích : Mục III, SGK/39 địa lí 11 cơ bản.

Câu 12. Lợi ích to lớn do người nhập cư mang đến cho Hoa Kì là

Advertisement

A. Nguồn lao động có trình độ cao

B. Nguồn đầu tư vốn lớn

C. Làm phong phú thêm nền văn hóa

D. Làm đa dạng về chủng tộc

Đáp án: A

Giải thích : Mục III, SGK/39 địa lí 11 cơ bản.

Câu 13. Thành phần dân cư có số lượng đứng đầu ở Hoa Kì có nguồn gốc từ

A. Châu Âu

B.Châu Phi

C. Châu Á

D.Mĩ La tinh

Đáp án: A

Giải thích : Mục III, SGK/39 địa lí 11 cơ bản.

Câu 14. Thành phần dân cư có số lượng đứng thứ hai ở Hoa Kì có nguồn gốc từ

A. Châu Âu

B. Châu Phi

C. Châu Á

D. Mĩ La tinh

Đáp án: B

Giải thích : Mục III, SGK/39 địa lí 11 cơ bản.

Câu 15. Dân cư Hoa Kì tập trung với mật độ cao ở

A. Ven Thái Bình Dương

B. Ven Đại Tây Dương

C. Ven vịnh Mê-hi-cô

D. Khu vực Trung tâm

Đáp án: B

Giải thích :Mục III, SGK/40 địa lí 11 cơ bản.

Câu 16. Dân cư Hoa Kì hiện nay đang có xu hướng di chuyển từ các bang vùng Đông Bắc đến các bang

A. Phía Nam và ven bờ Đại Tây Dương

B. Phía Nam và ven bờ Thái Bình Dương

C. Phía Bắc và ven bờ Thái Bình Dương

D. Phía Tây và ven bờ Đại Tây Dương

Đáp án: B

Giải thích : Mục III, SGK/40 địa lí 11 cơ bản.

…………………………….

6 Bài Soạn “Luyện Tập Xây Dựng Bài Tự Sự Kể Chuyện Đời Thường” Lớp 6 Hay Nhất

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 2

Trả câu 1 (trang 119 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Cho các đề văn tự sự sau:

a) Kể về một kỉ niệm đáng nhớ (được khen, bị hiểu lầm, …)

b) Kể một chuyện vui sinh hoạt (như nhận lầm, nhát gan, …)

c) Kể về người bạn mới quen (do cùng hoạt động văn nghệ, thể thao, mà quen, tính tình của bạn ra sao …)

d) Kể về một cuộc gặp gỡ (đi thăm các chú bộ đội, thăm các bạn thiếu niên vượt khó, …)

đ) Kể về những đổi mới ở quê em (có đường, có nước máy, có cầu mới, …)

e) Kể về thầy giáo (hoặc cô giáo) của em (người quan tâm, động viên em học tập, …)

g) Kể về một người thân của em (ông bà, bố mẹ, anh chị em, …)

Em hãy tìm thêm một, hai đề văn tự sự cùng loại và ghi vào vở

Lời giải chi tiết:

Một số đề tự sự cùng loại:

– Kể về một buổi họp chợ quê em.

– Kể về một ngày làm việc của mẹ em.

– Kể về một lần về thăm quê.

– Kể về một chuyến du lịch biển

– Kể lại kỉ niệm ngày thơ ấu.

Trả lời câu 2 (trang 119 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Theo dõi quá trình thực hiện 1 đề văn tự sự (Trang 119 – 1121). Hãy nhận xét:

– Bài làm có sát với đề không?

Trả lời câu 3 (trang 121 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Lập dàn bài cho một đề văn tự sự trong số các đề nêu trên hoặc viết một bài về người ông của em.

Dàn bài 1: Kể về ông (hay bà) của em.

a. Mở bài: Giới thiệu chung về ông em.

b. Thân bài:

– Nói về ý thích của ông:

+ Ông thích trồng cây gì? Đọc báo?

+ Cháu thắc mắc, ông đều giải thích rất nhẹ nhàng, tỉ mỉ.

– Ông rất yêu các cháu

+ Chăm sóc việc học

+ Kể chuyện cho các cháu

+ Ông chăm lo sự bình yên cho gia đình

c. Kết bài: Nêu tình cảm, ý nghĩ của em đối với ông.

Dàn bài 2: Kể về những đổi mới ở quê em.

a. Mở bài: Ai đi xa lâu lâu có dịp trở về hẳn phải ngỡ ngàng vì những đổi mới chóng mặt ở quê em.

– Quê em cách đây chục năm nghèo, buồn, …

– Quê em hôm nay đổi mới toàn diện; nhanh chóng:

+ Những con đường, những ngôi nhà mới

+ Trường học, trạm xá, ủy ban xã,sân bóng…

+ Điện đài, ti vi, vi tính, xe máy…

+ Nề nếp làm ăn, sinh hoạt…

c. Kết bài: Quê em trong tương lai sẽ tiếp tục thay đổi như thế nào? Nêu cảm nghĩ của em trước sự thay đổi ấy.

Kể lại sinh hoạt trong một buổi chiều thứ bảy của gia đình.

Bố tôi công tác cách nhà gần 50 cây số nên cuối tuần mới về. Chỉ có chiều thứ bảy cả nhà tôi mới được đông đủ.

Không khí gia đình tôi những ngày cuối tuần thường rộn ràng hơn và nhất là vào ngày thứ bảy, bởi cả ba mẹ con tôi, ai cũng ngóng bố về, và liên tục nhắc đến bố. Nào là tiếng cái út nũng nịu hỏi:

– Bố sắp về chưa hả mẹ?

Mẹ âu yếm trả lời:

– Chỉ một lát nữa bố sẽ về nhà. Con ngoan, bố về sẽ có quà, còn hư là bố không cho đâu.

Con bé nghe vậy cười tít mắt:

– Con ngoan nhất nhà mẹ nhỉ!

Quay sang tôi nó tranh:

– Em ngoan hơn chị, bố sẽ cho em nhiều quà hơn.

Tôi mỉm cười ra dáng chị cả:

– Chị sẽ nhường cho em hết. Được chưa. Bây giờ em lên nhà đợi bố để mẹ với chị nấu cơm.

Biết bố thích ăn canh cua, chiều thứ bảy nào mẹ cũng mua cua về để làm món bố thích. Và tôi thường quanh quẩn bên chân mẹ để phụ giúp. Chiều hôm nay cũng vậy, mẹ chuẩn bị mọi thứ từ sáng, đợi đến lúc bố sắp về đến nhà hai mẹ con lại tíu tít chuẩn bị.

Đang mải mê nấu nướng hai mẹ con tôi bỗng nghe thấy út gọi í ới:

– Mẹ ơi, bố về. Bố về rồi!

Tiếng nó lại lảnh lót:

– Con chào bố ạ. Bố có mua quà cho con không?

Tôi và mẹ chạy lên nhà, bố đã bế út và lấy quà cho bé. Con nhỏ sung sướng ôm cổ bố.

Bố quay sang tôi hỏi:

– Con đang nấu cơm hả? Con ngoan lắm.

Bố cất cặp sách vào nhà, mẹ đã kịp mang một chậu nước mắt lạnh cho bố rửa mặt, còn tôi chạy đi lấy cho bố một cốc nước mát.

Một lát sau cả nhà tôi đã quây quần bên mâm cơm nóng hổi, từ lúc bố về út luôn ngồi cạnh kể cả lúc ăn cơm. Nó còn đòi gắp thức ăn cho bố và khi bố vừa đưa bát ra cho nó gắp thức ăn vào thì nó lại đánh rơi ngay xuống đất, cả nhà được một phen cười. Bố vừa cười, vừa nói:

– Con gái bố ngoan lắm! Tuần này con có được phiếu bé ngoan không?

Nhắc đến phiếu bé ngoan, bé vội vàng tụt xuống đất lon ton đi lấy ra khoe với bố. Bố vui sướng nhìn bé rồi quay sang hỏi tôi:

– Thế con được mấy điểm mười.

Tôi tự hào khoe với bố:

– Con vẫn luôn dẫn đầu lớp, tuần này bố phải thưởng cho con một chuyến đi công viên đấy.

Nghe đến công viên út vội hét lên:

– Con đi mấy.

– Ừ! Bố sẽ đưa cả nhà đi.

Tôi còn kể cho bố nghe chuyện trường lớp và chuyện nhà tuần qua ra sao. Bố nhìn chúng tôi đầy yêu thương, trìu mến.

Ăn cơm xong, cả nhà tôi đi dạo phố và ăn kem ở Bờ Hồ, thật vui. Buổi tối thứ bảy đường phố đông đúc, tấp nập. Hai chị em tôi ca hát líu lo. Tôi chỉ mong ngày nào cũng là thứ bảy để cả nhà tôi được bên nhau.

Bài 2: Kể một kỉ niệm sâu sắc (Ngày khai trường)

Hôm nay là ngày khai trường. Mấy tháng nghỉ hè của chúng tôi đã đi qua như một giấc mộng. Sáng nay, mẹ tôi dắt tôi đến phân hiệu Ba-ret-ti để ghi tên tôi vào lớp ba. Còn tôi thì mải nhớ thôn quê, tôi đến trường chỉ là miễn cưỡng. Tất cả các đường phố đều tấp nập học sinh, đông như kiến. Hai cửa hiệu bán sách chật những bố mẹ học sinh vào mua nào vở, nào giấy thấm, nào cặp sách bằng da… Trước trường, người đông đến nỗi ông gác cổng và người cảnh binh đều phải chật vật lắm mới giữ được thông lối ra. Chúng tôi sắp bước qua cổng thì thấy có người đặt tay lên vai mình: đó là thầy giáo lớp hai của tôi, có mái tóc hung, bù xù và tính vui vẻ không bao giờ cạn. Thầy bảo tôi: “Chúng ta thế là xa nhau mãi rồi, phải không En-ri-cô?”

Tôi cũng biết như vậy, thế mà lời nói của thầy vẫn làm cho lòng tôi nặng trĩu. Chúng tôi phải chật vật lắm mới vào được trường. Những ông, những bà, những phụ nữ thường dân, những công nhân, những sĩ quan, những bà cụ và những người giúp việc, ai cũng tay dắt một đứa trẻ, tay mang những cái gói, làm huyên náo cả một phòng đợi và các thang gác.

Tôi vui thích thấy lại căn phòng rộng ở tầng dưới thông với bảy lớp học, mà suốt ba năm gần như ngày nào tôi cũng đi qua. Người đông nghịt. Các cô giáo đi đi, lại lại. Một cô giáo lớp một đứng trên ngưỡng cửa của lớp cô, chào tôi và nói:

– En-ri-cô, năm nay con học trên gác, và cô sẽ không còn thấy con đi qua đây nữa!

Rồi cô nhìn tôi có vẻ buồn. Tôi trông thấy thầy hiệu trưởng, mà bộ râu hình như có bạc hơn năm ngoái một ít, đang bị vây giữa những bà mẹ khá phật ý vì không còn chỗ để cho con họ vào học nữa. Tôi thấy nhiều bạn tôi lớn lên nhiều. Ở tầng dưới, học sinh chia xong vào các lớp, người ta thấy các em học những lớp vỡ lòng không chịu vào lớp, cứ đẩy nhau như những con lừa con; người ta phải lôi chúng vào; vài em bỏ chạy không chịu ngồi ghế, nhiều em khác oà lên khóc khi thấy bố mẹ ra về. Những ông bố, bà mẹ ấy phải quay lại để khuyến khích hoặc dỗ dành con; còn các cô giáo trông thấy vậy cũng có nhiều thất vọng.

Em trai tôi được vào học lớp của cô giáo Đen-ca-ti, tôi học lớp thầy giáo Pec-nô-bi ở gác hai. Đến mười giờ thì tất cả chúng tôi đều đã vào lớp hết; năm mươi bốn học sinh tất cả. Trong đám ấy, tôi chỉ gặp lại chưa đến mười lăm, mười sáu bạn cũ ở lớp hai; trong đó có Đê-rôt-xi, cái cậu bao giờ cũng được giải nhât. Trường học đối với tôi có vẻ nhỏ hẹp và buồn tẻ làm sao so với rừng núi mà tôi đã đến ở chơi mấy tuần qua. Tôi lại còn nhớ tiếc thầy giáo lớp hai của tôi, thầy tốt làm sao, và lúc nào cũng cười với tôi. Người thầy nhỏ nhắn đến nỗi làm cho chúng tôi cứ tưởng là một người bạn. Tôi tiếc không được thấy thầy ở đây, với mái tóc hung bù xù của thầy nữa.

Thầy giáo năm nay của chúng tôi người cao lớn, không có râu, tóc dài đã hoa râm hết, có một nếp nhăn trên trán, tiếng nói rất to; thầy nhìn chúng tôi chằm chằm hết đứa này đến đứa khác, như muốn đọc rõ tận trong lòng chúng tôi. Thầy không bao giờ cười. Tôi thầm nghĩ: “Hôm nay là ngày đầu tiên đây. Hãy còn những mười tháng nữa mới lại nghỉ hè. Trước mắt biết bao là công việc, là bài thi, là khó nhọc!

Tan học, tôi cần phải gặp mẹ tôi, và tôi chạy ra ôm lấy mẹ. Mẹ bảo: “Gắng lên, En-ri-cô của mẹ. Mẹ con chúng ta cùng học với nhau!”. Thế là tôi vui vẻ về nhà. Thôi cũng được! Tôi không còn học với thầy giáo cũ tươi cười thế, vui tính thế và tốt bụng thế; nhà trường đối với tôi hình như cũng chẳng thích thú bằng năm ngoái… Nhưng thôi cũng được.

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 1

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 2

I. Cho các đề văn tự sự sau:

– Đề 1: Kể về một kỉ niệm đáng nhớ (được khen, bị hiểu lầm, …)

– Đề 2: Kể một chuyện vui sinh hoạt (đốt lửa trại, …)

– Đề 3: Kể về người bạn mới quen. (do cùng lớp tiếng anh, do cùng câu lạc bộ thể thao, tính tình của bạn ra sao …)

– Đề 4: Kể về một cuộc gặp gỡ. (đi thăm các chú bộ đội, thăm các bạn khuyết tật, …)

– Đề 5: Kể về những đổi mới ở quê em. (có đường, có nước máy, có cầu mới, …)

– Đề 6: Kể về thầy giáo (hoặc cô giáo) của em. (người quan tâm, động viên em học tập, …)

– Đề 7: Kể về một người thân của em. (ông bà, bố mẹ, anh chị em, …)

Có thể tham khảo một số đề tự sự khác:

II. Gợi ý lập dàn bài

Đề 5: Kể về những đổi mới ở quê em.

a. Mở bài:Ai đi xa lâu lâu có dịp trở về hẳn phải ngỡ ngàng vì những đổi mới chóng mặt ở quê em.

Đề 7: Kể về một người thân của em. (ông bà, bố mẹ, anh chị em, …)

a. Mở bài:Giới thiệu chung về ông em.

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 1

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 5

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 1

1. Tìm một số đề văn tự sự cùng loại và ghi vào vở:

– “Kể về một việc tốt em đã làm”

– “Kể về chuyến dã ngoại với lớp vừa rồi của em”.

– “Kể về một chuyện vui hoặc buồn xảy ra trong lớp”

– “Kể về một người làm việc trong trường”

2. “Kể chuyện ông (bà) của em”

– Bài làm rất sát với đề. Tất cả các ý trong dàn bài đều phát triển thành văn, thành câu cụ thể.

3. Lập dàn bài cho một đề văn tự sự:

“Kể về những đổi mới ở quê em”

a. Mở bài: Mọi người rời xa quê hương đã lâu, nay trở về sẽ phải ngỡ ngàng về những đổi mới của Bắc Giang.

– Cách đây vài chục năm, Bắc Giang nghèo và thiếu thốn nhiều thứ.

– Bây giờ, đổi mới toàn diện:

+, Những con đường mới, ngôi nhà cao tầng mọc lên.

+, Trường học được xây khang trang, sạch đẹp; trạm xá, ủy ban xã, câu lạc bộ được xây dựng mới.

+, Công nghệ thông tin về tới từng hộ dân.

+, Kinh doanh phát triển.…

c. Kết bài: Em nghĩ Bắc Giang sẽ như thế nào trong tương lai.

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 3

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 5

Giải câu 1, 2, 3, 4 trang 60 Sách bài tập (SBT) Ngữ văn 6 tập 1. 2. Viết đoạn văn kể về một cuộc gặp gỡ.

Bài tập

1. Đọc và phân tích các đề văn tự sự ở bài tập 1, trang 119, 5GK.

2. Viết đoạn văn kể về một cuộc gặp gỡ.

3. Viết đoạn văn giới thiệu về một người nào đó.

4. Viết đoạn văn kể về một sự việc có ý nghĩa.

Gợi ý làm bài

Câu 1. Phân tích các đề văn tự sự.

a) Kể về một kỉ niệm đáng nhớ

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có biết bao chuyện đáng nhớ : chuyện vui, chuyện buồn, chuyện may, chuyện rủi, được khen, bị chê,… miễn là chuyện có ý nghĩa, chuyện đáng nhớ. Chẳng hạn, một lần do quay cóp bài của bạn mà được điểm cao, tuy không bị ai phát hiện, nhưng trong lòng tự thấy xấu hổ, quyết tâm không lặp lại. Hoặc một lần khác đem giấu dép của cô giáo rồi đổ thừa cho bạn khác, khiến bạn ấy bị nghi oan,…

b) Kể một chuyện vui sinh hoạt

Một chuyện vui sinh hoạt cũng thường gặp trong thời học sinh. Chẳng hạn, một bạn vì hăng hái xung phong lên kể chuyện trước lớp, nhưng do chưa thuộc bài, quên hết, đứng như trời trồng,…

c) Kể về một người bạn mới quen

Thời học sinh, ai cũng có dịp làm quen với những người bạn mới và kể về một người bạn như thế là điều không khó. Bạn ấy là nam hay nữ, tên gì, có đặc điểm gì (cao, thấp, béo, gầy), tính tình thế nào, học tập ra sao, có việc gì đáng kể,…

d) Kể về một cuộc gặp gỡ

Cuộc gặp gỡ (với các anh bộ đội, các anh đoàn viên thanh niên, các bạn thiếu niên vượt khó,…) diễn ra lúc nào, với em, em thu nhận thêm những hiểu biết gì, điều ấy sẽ bổ ích đối với em như thế nào ?…

đ) Kể về những đổi mới ở quê em

Những đổi mới ở quê em (như có điện, có đường, có trường mới, công trình thuỷ lợi,…) đã đem lại thuận lợi, tiến bộ gì cho quê hương ?

e) Kể về thầy (cô) giáo của em

Đó là người thầy (cô) giáo mà em yêu quý. Người đó đã hoặc đang dạy em, đã có sự quan tâm, giúp đỡ em học tập tiến bộ, động viên em phấn đấu vươn lên trong học tập.

g) Kể về một người thân của em

Người thân trong gia đình em như ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em. Chọn người nào có ấn tượng sâu sắc, có sự việc đáng nhớ với em để kể.

Câu 2. Cuộc gặp gỡ đó có thể là gặp bạn cũ, gặp người quen, gặp bạn mới, gặp thầy, gặp cô, gặp người lạ,… Điều quan trọng trong đoạn văn này là phải cho biết rõ gặp ai, ở đâu, lúc nào, nhân việc gì, gặp gỡ thế nào. Người ta có thể do đụng xe mà gặp nhau, do nhặt giùm bạn cặp sách đánh rơi mà quen nhau, do cho mượn bút mà biết nhau,… Em hãy chọn kể một cuộc gặp gỡ có ý nghĩa.

Câu 3. Giới thiệu về một người là yêu cầu không thể thiếu trong bài văn tự sự. Trong đoạn văn hãy nói rõ đó là ai, tên gì, trạc tuổi, ấn tượng vê người ấy.

Câu 4. Sự việc có ý nghĩa là sự việc tốt hay xấu, khiến em vui hay buồn. Ví dụ, em bỏ quên cặp sách, có người cầm hộ em, đó là việc vui, việc tốt, nói lên người bạn tốt. Có bạn viết bậy vào vở em, đó là việc xấu, bạn ấy thiếu tôn trọng người khác,… Trong đời sống có rất nhiều sự việc như vậy, em hãy chọn một sự việc và kể ra. Nên chú ý kể rõ sự việc xảy ra vào lúc nào, ở đâu, với ai, kết quả thế nào.

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 4

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 3

I. Lí thuyết

Câu 1. Cho các đề bài sau:

a. Kể về một kỉ niệm đáng nhớ

b. Kể về một chuyện vui sinh hoạt

c. Kể về một người bạn mới quen

d. Kể về một cuộc gặp gỡ

đ. Kể về những đổi mới ở quê em

e. Kể về thầy/cô giáo của em

g. Kể về một người thân của em

Câu 2. Theo dõi quá trình làm đề tự sự trong SGK và nhận xét

Bài làm trong sách giáo khoa có sát với đề bài là tả người ông của em.

– Phần mở đầu: Giới thiệu chung ông (cán bộ về hưu, tuổi cao)

– Phần thân bài:

II. Luyện tập

Lập dàn ý:

Đề 1.

* Mở bài:

– Giới thiệu về kỉ niệm đáng nhớ đó là gì? (được thầy cô khen, bị hiểu lầm, nói dối cha mẹ…)

– Ấn tượng chung của em về kỉ niệm ấy (vui vẻ, hạnh phúc, xấu hổ…)

* Thân bài

1. Hoàn cảnh diễn ra kỷ niệm:

– Kỉ niệm đó diễn ra khi nào?

2. Diễn biến của câu chuyện:

– Nêu mở đầu câu chuyện và diễn biến như thế nào

– Trình bày đỉnh điểm của câu chuyện

– Thái độ, tình cảm của nhân vật trong chuyện

3. Kết thúc câu chuyện

– Câu chuyện kết thúc như thế nào

– Nêu suy nghĩ và cảm nhận của bạn qua câu chuyện.

* Kết bài: Bài học em nhận ra sau kỷ niệm đó.

Đề 2.

* Mở bài: Giới thiệu về chuyện vui sinh hoạt là gì: như nhận lầm, nhát gan…

* Thân bài:

1. Hoàn cảnh diễn ra:

2. Địa điểm diễn ra câu chuyện: trong lớp học, ở sân trường…

– Thời gian địa điểm xảy ra câu chuyện?

– Tình huống đáng cười trong câu chuyện là gì?

– Câu chuyện kết thúc ra sao?

3. Em rút ra được điều gì từ câu chuyện đó?

* Kết bài: Em cảm thấy như thế nào sau khi trải qua câu chuyện đó.

Đề 3.

* Mở bài: Giới thiệu tên tuổi người bạn mới quen

– Hoàn cảnh gặp gỡ và quen biết người bạn mới (trong hiệu sách, bạn cùng lớp, trong chuyến du lịch cùng gia đình…).

– Đôi nét về ngoại hình: dáng người, mái tóc, làn da

– Tính cách của người bạn: hiền lành, chăm chỉ…

– Kỉ niệm với người bạn mới quen

* Kết bài: Tình cảm của em dành cho người bạn mới quen

Đề 4.

* Mở bài: giới thiệu cuộc gặp gỡ đó là gì (đi thăm các chú bộ đội, gia đình thương binh liệt sĩ…)

– Hoàn cảnh: trong chuyến tham quan cùng cả trường, trong một buổi tình nguyện…

– Diễn biến: Kể lại nội dung cuộc trò chuyện, những hoạt động được tổ chức và một kỉ niệm ấn tượng nhất.

– Bài học sau chuyến đi mà em tự rút ra.

* Kết bài: Cảm nghĩ của em sau cuộc gặp gỡ đó.

Đề 5.

* Mở bài: Giới thiệu chung về quê em

– Miêu tả khung cảnh làng quê em trước đây

* Kết bài: Tình cảm của em đối với quê hương

Đề 6.

* Mở bài: Giới thiệu chung về người thầy/ cô giáo của em (tên, tuổi, dạy môn gì)

– Miêu tả đôi nét về ngoại hình

– Miêu tả tính cách: nghiêm khắc, hiền từ

– Tình cảm của thầy/cô dành cho học sinh: quan tâm, tận tình

– Kỉ niệm đẹp với thầy/cô

* Kết bài: Tình cảm của em đối với thầy/cô

Đề 7.

* Mở bài: Giới thiệu chung về người thân mà của em (đó là ai, tên và tuổi tác, nghề nghiệp).

– Tả đôi nét về ngoại hình.

– Sở thích của người thân.

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 4

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 6

Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” số 4

Câu a (trang 119 sgk Văn 6 Tập 1):

a. Mở bài: giới thiệu một cách khái quát nhất về kỉ niệm mà em định kể (được khen, được chê, …)

+ Ấn tượng của em về kỉ niệm đó (vui hay buồn).

– Người mà làm nên kỉ niệm đáng nhớ đối với em có những đặc điểm gì: ngoại hình, tuổi tác, tính cách và cách ứng xử của người đó.

– Giới thiệu kỉ niệm:

+ Đây là kỉ niềm buồn hay vui.

+ Xảy ra trong hoàn cảnh như thế nào.

– Diễn biến câu chuyện:

+ Nêu mở đầu câu chuyện và diễn biến của chuyện đó.

+ Đỉnh điểm của câu chuyện diễn ra như thế nào?

+ Thái độ, tình cảm của người trong cuộc.

– Kết thúc câu chuyện:

+ câu chuyện kết thúc như thế nào?

+ nêu suy nghĩ và cảm nhận của em qua câu chuyện.

c. Kết bài:

– Cảm nhận và lời hứa của em khi trải qua sự việc vừa rồi.

Câu b (trang 119 sgk Văn 6 Tập 1):

a. Mở bài: giới thiệu hoàn cảnh diễn ra câu chuyện.

– Kể lại chi tiết diễn biến câu chuyện:

+ Thời gian và địa điểm xảy ra câu chuyện.

+ Tình huống đáng cười nhất trong câu chuyện là gì?

+ Câu chuyện kết thúc ra sao?

– Em rút ra được bài học gì tư câu chuyện này.

– Nêu ấn tượng mà câu chuyện để lại trong em.

Câu c (trang 119 sgk Văn 6 Tập 1):

a. Mở bài: giới thiệu một cách khái quát nhất về người bạn mà em mới quen.

– Hoàn cảnh gặp gỡ của em và bạn mới là ở đâu và vào lúc nào.

– Đặc điểm về ngoại hình, tính cách của người bạn đó.

– Em thích nhất điều gì ở người bạn mới quen.

– Em và người bạn mới đã cùng nhau giúp đỡ nhau như thế nào để cùng có kết quả học tập tốt.

– Tình bạn mới đã có tác động như thế nào đến việc học tập và các hoạt động khác của em.

– Từ đó, em có suy nghĩ gì về tình bạn.

Câu d (trang 119 sgk Văn 6 Tập 1):

a. Mở bài: giới thiệu sơ qua về cuộc gặp gỡ mà em định kể.

– Kể chi tiết các sự việc diễn ra trong buổi gặp gỡ:

+ mở đầu cuộc gặp gỡ.

+ nội dung chính của gặp gỡ: các sự kiện, không khí, khung cảnh,…

+ cuộc gặp gỡ kết thúc như thế nào.

– Nêu ý nghĩa về cuộc gặp gỡ giữa em và chú bộ đội.

– Cuộc gặp gỡ ấy đã mang lại cho em những suy nghĩ gì.

– Nêu ngắn gọi cảm nghĩ của em về cuộc gặp gỡ đó.

Câu đ (trang 119 sgk Văn 6 Tập 1):

a. Mở bài: giới thiệu sơ qua về vấn đề mà em định nói tới.

– Quê trước khi đổi mới:

+ nhà: nhỏ bé, cũ kĩ,..

+ đường: đường đất, nhỏ hẹp, …

+ trường học: cũ, mái ngói liêu xiêu, …

+ chợ: thưa thớt.

+ cuộc sống người dân vô cùng vất vả, lam lũ,..

– Quê em sau đổi mới:

+ Nhà cửa mới, có nhiều nhà cao tầng.

+ Đường bê tông, sạch đẹp, …

+ Trường học có thêm nhiều thiết bị hiện đại: máy tính, máy chiếu, ..

+ Chợ: đông vui, tấp nập hơn.

+ Cuộc sống người dân dễ chịu, thoải mái hơn rất nhiều.

– Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?

– Em sẽ làm gì để góp phần xây dựng quê hương.

Câu e (trang 119 sgk Văn 6 Tập 1):

a. Mở bài: giới thiệu ấn tượng của em về người thầy (cô) của mình.

– Miêu tả về ngoại hình thầy (cô) mà em yêu quý nhất.

– Kể về tính cách của thầy (cô) ấy.

– Kỉ niệm đáng nhớ nhất giữa em và người thầy (cô) đó.

– Đến nay, tình cảm của em đối với người thầy (cô) ấy là như thế nào?

– Nêu cảm nghĩ của em về người thầy (cô) ấy.

Đăng bởi: Phước Đạt Mai

Từ khoá: 6 Bài soạn “Luyện tập xây dựng bài tự sự kể chuyện đời thường” lớp 6 hay nhất

6 Bãi Biển Đẹp Nhất Hà Tĩnh

Biển cả từ lâu đã là một điểm đến mà nhiều người ưa thích. Nhiều người có thói quen tìm về với biển khi cần một khoảng thời gian để nghỉ ngơi, tịnh dưỡng.Thật tuyệt vời cho những ai được đắm mình trong làn nước trong xanh của biển cả vào những ngày nắng nóng. Làn nước biển mát lạnh như có phép màu có thể làm giải tỏa, tan biến đi cái nực nội của ngày hè và cả sự bực bội, khó chịu trong lòng du khách. chúng mình xin được giới thiệu với du khách xa gần những bãi biển tuyệt vời của vùng quê Hà Tĩnh – một vùng quê non nước hữu tình.

Bãi biển Hoành Sơn

Là nơi cuối cùng cực nam của tỉnh Hà Tĩnh, Bãi biển Hoành Sơn thuộc địa phận xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh cách thành phố Hà Tĩnh 80 km về phía Nam, cách đèo Ngang chưa đầy 2 km.

Nơi đây nổi tiếng với bãi cát trắng mịn, khung cảnh hoang sơ và rất thơ mộng. Bãi biển Hoành Sơn được dãy núi bao bọc che chở nên kín đáo và lặng gió; nước trong, xanh ngắt. Nơi đây thừa hưởng khí hậu cũng như phong cảnh của cả biển và núi rừng. Từ bãi biển có thể nhìn thấy dãy Hoành Sơn – dãy núi chạy từ dải Trường Sơn – kéo ra tận biển Đông. Bãi biển nhỏ, hẹp, nhưng lại gây ấn tượng bởi sự hùng vĩ và hoang sơ của thiên nhiên, sự giản dị của cuộc sống con người. Hoành Sơn là nơi tuyệt vời cho du khách đến tắm biển, phơi nắng, tản bộ dọc theo bờ biển có những bãi đá nhiều hình dạng khác nhau.

Bãi biển Kỳ Xuân

Bãi biển Hoành Sơn

Xã Kỳ Xuân, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh được thiên nhiên ưu ái ban tặng 12 km bờ biển với bãi tắm đẹp. Chỉ cần đến nơi đây, chắc chắn du khách sẽ bị choáng ngợp và nhanh chóng bị “thôi miên” bởi phong cảnh biển dịu dàng, lãng mạn. Nước biển trong xanh, mát dịu, có nhiều lèn đá, bãi đá nhấp nhô tự nhiên đan xen các bãi cát thoai thoải. Ngoài ra còn có các khe nước vừa mặn, vừa ngọt phân chia ranh giới tùy theo thủy triều.

Phía bên trên là những tán rừng phi lao, rừng tràm phòng hộ cao vút ngăn gió, chắn sóng. Ngoài khơi xa, cách khoảng 4-5 hải lý là Hòn Én và Hòn Bớc án ngữ. Hai hòn đảo này trông xa như bàn tay che chở cho dân vạn chài tránh bão tố từ đời này qua đời khác. Đặc biệt, bãi biển nằm dựa lưng vào các ngọn núi nguyên sinh như Tượng Lĩnh, núi Vàng, núi Sơn Tịnh… bên cạnh là những ngôi làng chài thấp thoáng càng làm cho phong cảnh trở nên hấp dẫn, hữu tình.

Khu C- Resort tọa lạc trên diện tích 6 ha trải dài trên bãi biển, cách quốc lộ 1A hoảng 4 km. Với thiết kế sang trọng, đẳng cấp nhưng không kém phần hài hòa, C-Resort tạo nên một không gian nghỉ dưỡng hiện đại, tiện nghi nhưng gần gũi và thân thiện với thiên nhiên.

Ngoài vẻ đẹp hoang sơ, huyền ảo, Kỳ Xuân sẵn có rất nhiều loại hải sản tươi sống “đặc sản” mà hiếm vùng biển nào được thiên nhiên ban tặng như vậy: nào là mực nháy, cụp, tôm hùm, cu kỳ, lệch, sò huyết, sò mai, sò điệp, ngọc nữ, vẹm, cá vược, cá mú…Chỉ một lần đến với Kỳ Xuân, chắc chắn bạn sẽ ” chỉ muốn ở đây thôi chẳng muốn về “.

Bãi biển Kỳ Xuân

Bãi biển Thiên Cầm

Bãi biển Kỳ Xuân

Tiếp tục đi về hướng Đông Nam, cách thành phố Hà Tĩnh độ chừng 30 km theo tuyến đường nhanh nhất thì đến biển Thiên Cầm thuộc thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên. Biển ở đây được ví như hòn ngọc bích với đậm dấu ấn huyền thoại về miền ký ức của biển xanh, cát trắng, nắng vàng tuyệt đẹp. Bãi biển tựa như hình cánh cung trải dài gần 3 km với khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, là 1 trong khá nhiều điểm tham quan nức danh ở Hà Tĩnh.

Không đông đúc như nhiều bờ biển khác ở miền Bắc, biển Thiên Cầm hoang vu và thơ mộng. Bãi cát trải dài với vô vàn những bãi đá kì thú muôn hình muôn vẻ. Đến Thiên Cầm bạn sẽ được nghe tiếng gió dội vào vách núi, tiếng hàng thông xanh lao xao, hòa quyện để tạo nên “cung đàn trời” bất tận giữa biển cả; được tận hưởng những cơn gió lộng trong trẻo từ khơi xa; được ngắm phong cảnh sơn thủy hữu tình để cảm thấy nao lòng, quyến luyến.

Tương truyền, vào đời Vua Hùng thứ 13, trong một lần vua đi tuần thú phương nam, ghé qua một vùng biển non nước hữu tình. Thấy cảnh trí hoang sơ, đẹp đẽ, nhà vua hạ lệnh dựng trại để nghỉ chân. Đêm đến, vua nghe tiếng gió, tiếng sóng, tiếng lá thông reo dội vào vách núi tạo thành một bản nhạc du dương. Ngỡ là có vị tiên hạ phàm đang gảy đàn quanh đây, vua cùng quân lính đi tìm chung quanh, rồi leo lên đỉnh núi cao nhất. Nhìn xuống chân núi, thấy bãi biển có dáng hình một chiếc đàn tỳ bà, Vua Hùng liền đặt tên cho vùng biển này là “Thiên Cầm”- có nghĩa là “đàn trời”.

Muốn trải nghiệm hết vùng đất này, bạn phải bắt đầu từ buổi sớm tinh mơ – khi mặt trời thức dậy trên mặt biển để khám phá nhịp sống vùng biển từ làng chài Cửa Nhượng. Đây là lúc những đoàn thuyền cập bờ sau một đêm dài chài lưới. Hãy đến với Thiên Cầm để được khám phá, cảm nhận hết vẻ đẹp trong lành, tinh khiết của một vùng biển đẹp..

Bãi biển Thạch Hải – Thạch Hà- hà Tĩnh

Để lưu giữ được vẻ đẹp hoàn hảo mà thiên nhiên ban tặng thì chủ đầu tư và các nhà thiết kế kiến trúc của khu resort đã tiến hành xây dựng thành hai khu. Mỗi khu đều có những ưu điểm và dịch vụ riêng nhưng tổng thể chung vẫn rất hài hòa với địa hình sẵn có để tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên.

Khu A có 12 villa nghỉ dưỡng cao cấp với 48 phòng cho thuê. Các villa đều lấy cảm hứng và được xây dựng theo kiểu nhà sàn bằng gỗ và đá truyền thống do bàn tay của các nghệ nhân địa phương tạo dựng nên. Mỗi biệt thự có 4 – 8 phòng ngủ hướng ra biển.

Khu B là khu kinh doanh bãi tắm với khách sạn gồm 19 phòng được xây dựng theo kiểu dạng ống với view nhìn thẳng ra biển khiến cho nơi đây trở thành địa điểm vô cùng “hot” dành cho các bạn trẻ muốn được trải nghiệm. Các phòng được thiết kế so le nhau nên dù có liền kề vẫn đảm bảo được sự riêng tư cho du khách.

Bãi biển Xuân Hải

Bãi biển Thạch Hải – Thạch Hà- hà Tĩnh

Từ Xuân Thành, vượt 24 km về phía Nam là đến bãi tắm Xuân Hải thuộc địa phận xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại bãi tắm Xuân Hải vào những ngày này mới thấy được lượng du khách đổ về ngày càng đông. Ở đây, du khách có thể thoải mái tắm biển và cùng nhau thưởng thức các món hải sản mang đặc trưng của vùng cửa biển Thạch Kim, bãi ngang Thịnh Lộc với giá cả rất ổn định.

Suốt 12 km đường bờ biển Xuân Hải được ke bờ cẩn thận với bãi cát dài thoai thoải và những rừng phi lao lùi sâu vào đất liền. Bãi biển Thạch Bằng được đánh giá là một trong những bãi biển đẹp, sạch và bằng phẳng ở Hà Tĩnh. Nước biển trong xanh, độ mặn vừa phải,không có vùng nước xoáy hay dòng chảy nguy hiểm. Vốn nằm khá xa khu dân cư nên biển sạch và còn mang đậm nét hoang sơ.

Ở Thạch Bằng, hệ thống nhà nghỉ và khách sạn chưa nhiều, chỉ mới độ chừng hơn 200 phòng. Tuy nhiên, khu du lịch tại huyện Lộc Hà có khả năng đón và phục vụ hàng nghìn lượt khách lưu trú một ngày đêm. Bạn hoàn toàn có thể chọn bãi biển Xuân Hải làm nơi nghỉ ngơi thư giãn cuối tuần một cách hợp lý cho cả gia đình.

Bãi biển Xuân Hải

Bãi biển Xuân Thành

Bãi biển Xuân Hải

Theo hướng Bắc vào Nam, điểm du lịch biển đầu tiên của Hà Tĩnh phải kể đến là biển Xuân Thành thuộc xã Xuân Thành – huyện Nghi Xuân – tỉnh Hà Tĩnh.

Điểm mà Xuân Thành níu lòng du khách chính là nhờ vẻ nguyên sơ, kỳ bí, thơ mộng của núi rừng và biển cả ngút tầm mắt. Cát biển Xuân Thành trắng mịn màng. Đặc biệt,nơi đây có dòng sông nước ngọt Mỹ Dương bắt nguồn từ núi Hồng Lĩnh chảy song song theo chiều dài bãi biển. Sông không sâu nhưng nước không bao giờ cạn. Hai bên bờ là thảm thực vật xanh tốt – đây chính là điểm đặc trưng tại bãi biển Xuân Thành mà không phải nơi nào cũng có.

Nước biển Xuân Thành có độ mặn vừa phải, trong xanh và rất sạch. Mặt nước như một tấm gương khổng lồ với hệ thống đảo Mắt, đảo Ngư nối liền trong cảnh sắc thiên nhiên trữ tình. Cả một khoảng trời mấy chục cây số, sắc trắng của cát, sắc xanh ngọc của nước biển cùng màu xanh tươi tắn của thảm thực vật hòa vào nhau tạo nên bức tranh đầy sống động.

Đăng bởi: Tuấn Trần

Từ khoá: 6 bãi biển đẹp nhất Hà Tĩnh

Cập nhật thông tin chi tiết về 6 “Liều Thuốc” Đặc Trị Chứng Hỗn Hào Ở Trẻ trên website Iild.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!